Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Hai, 31 tháng 10, 2016

MÙA NƯỚC NỔI

Kết quả hình ảnh cho mùa nước nổi miền tây

Ai về vùng đất phương nam,
Miền quê đầy nắng, ngập tràn yêu thương.
Đồng bằng, bát ngát, mênh mông,
Quê hương của chín dòng sông xuôi dòng.
Dọc, ngang đâu cũng kênh, sông,
Đền, chùa in dấu cha, ông thuở nào.
Người về thăm đất Cà Mau,
Dáng hình đất nước mũi tàu vươn xa.

Miền Tây sông nước bao la,
Đất này nặng nghĩa phù sa bao đời.
Bao vườn cây trái xanh tươi,
Miền Tây tình đất, tình người thủy chung.
Đến mùa nước nổi mênh mông,
Nước tràn ngập hết ruộng đồng khắp nơi.
Theo dòng, tôm cá lội, bơi,
Mùa nước nổi thỏa lòng người ước mong.
Dọc, ngang trên những cánh đồng,
Bao người đánh, bắt cá, tôm đầy xuồng.
Làng quê như nổi, bềnh bồng,
Như là những đảo giữa dòng nước sa.
Là mùa sen, súng nở hoa,
Miền quê tươi đẹp như là trong tranh.
Hoa là những món ngon lành,
Món ăn dân dã hình thành từ xưa.
Bỗng nghe vọng tiếng ai hò
Lan trên mặt sóng nhấp nhô xa vời.
Miền Tây vùng đất đẹp tươi,
Như là mời gọi mọi người về thăm.
Vào mùa nước nổi hàng năm,
Một vùng nước ngập trắng băng ruộng đồng.
Nối vào cùng các dòng sông,
Hình thành biển nước mênh mông cả miền.
Một vùng biển, giữa đất liền,
Là nhờ sông Hậu, song Tiền tạo lên.

 
                           Nguyễn Đề Kháng 
                                   29/10/2016

Cái hồi ấy!



Cái hồi ấy! Mây lững thững hơn cả lững thững!
Cái hồi ấy! Trời cao và xanh như không thể cao và xanh hơn được nữa!
Cái hồi ấy! Gió du dương và xao xuyến đến không chịu nổi!
Cái hồi ấy! và Nắng, sao mà thơm, sao mà ngọt, sao mà óng ả, hơn cả mật ong già hạn!
Nó, cái hồi ấy, không biết sao lại trẻ được đến thế nhỉ!
Đi học, đứa trẻ nào hình như cũng có biệt danh. Không ghép cùng tên ba mẹ, anh chị em thì cũng gắn với một đặc điểm nào đó. Của nó là Tồ. Tồ chuyên nghiệp luôn í.
Thế rồi chẳng biết đầu đuôi ra làm sao mà đến hồi lớp 6, lớp 7, cũng có vài cái đứa thuộc phái “húi cua” lại bẩu thích nó mới kinh chứ! Không lẽ chúng nó lại to gan dám Tồ hơn a?
Dấu hiệu để nó nhận biết là: thỉnh thoảng nó lại bị nhói 1 phát sau gáy như ai dí đầu que cời nóng ấy. Của đáng tội, hồi ấy tóc nó dài lắm, “đi chấm gáy, nằm chấm chiếu” cơ mà! Vì vậy nên độ nóng đi vào gáy trực tiếp, không gặp trở ngại gì. Nó quay phắt lại, với sắc khí hùng hục mài dao giết hổ trong mắt, sẵn sàng túm cái đứa chơi ác, thiêu rụi cho chừa. Chẳng có ai! Thế là cái quái gì đây chứ? Chẳng lẽ là ma? Ma làm gì có giữa ban ngày, lại ngay giữa lớp học nghiêm trang này chứ? Cái đầu Tồ của nó càng thêm ngẫn. Chỉ số IQ tụt xuống 0.
8,9,10,….rồi 15, 17,..nó không thèm đếm nữa và cũng không thèm tìm nguyên nhân. Mãi sẽ là bí ẩn nếu không có 1 lần, mắt nó bị một đôi mắt khác xẹt qua. Một đôi mắt từ đầu bàn cuối lớp. Đôi mắt rất đen. Im lăng, dè dặt nhưng có sức công phá chết người. Bằng chứng là nó đơ đến nỗi không thu được mắt về nữa, lúc này IQ chắc chừng âm 10 rồi! Là sao? Ai là chủ nhân của cái nhìn làm toàn bộ bề mặt da của nó bị tác động ghê gớm thế này?
Một lần khác, y như vậy.
Lần khác nữa, cũng y như vậy.
Lúc ấy gân hết học kỳ I, nó  biết là hắn. Cấp độ Tồ của nó đã lên đến mức không thể kiểm soát được. Tồ vẫn hoàn Tồ trước đôi mắt lạ kỳ kia.
Hắn, cái đứa mới chuyển vào lớp hồi đầu năm. Nghe đâu ở xa lắm, theo gia đình, bố mẹ hắn đến làm công nhân Nông trường. Hắn đi học muộn nên nhiều hơn tụi trẻ con trong lớp đến 2,3 tuổi. Nó mới dần dần nhớ ra, tụi con gái trong lớp đã thì thào về hắn ngay hôm thầy giáo chủ nhiệm đưa hắn bước vào lớp cơ. Vì nó, vốn sở hữu năng khiếu Tồ chuyên nghiệp, lại chẳng để ý gì ngoài việc chúi đầu đọc truyện và cặm cụi ngủ. Hắn học bình thường. Cao bình thường. Ngoại hình bình thường. Nói năng bình thường, í là không nói nhiều mà cũng không nói ít ấy. Duy chỉ có 1 điều là hắn vẽ hình rất siêu và chữ viết thì quá đẹp. Đó lại chính là 2 điều khủng khiếp nhất đối với nó mỗi khi đến giờ Hình. Và nữa, hắn mắc một cái tội không thể trừng trị được, đó là sở hữu đôi mắt có lửa!
Nó bị cháy nhiều lần rồi. Có ai trong cái lớp 7 hồi ấy bị bén lửa như nó không nhỉ? Đến giờ, nó vẫn không biết tìm ở đâu để có câu trả lời!

VA

ĐÂU CÒN

Kết quả hình ảnh cho ĐÂU CÒN LŨY TRE
 
Có còn đâu nữa lũy tre ngà
Cây sữa cây sòi với bóng đa
Ao chuôm vườn tược đầy cây trái
Gió sớm nắng chiều tiếng chim ca

Tươi tốt đồng gần tới ruộng xa
Lúa màu xanh thắm đến bao la
Cánh cò lả lướt trên đồng vội
Áo tím ai vui với sắc cà 
 
Nhà máy suốt ngày vang tiếng búa
Lập lòe ánh điện sáng muôn nhà
Lũy tre đốn bỏ thay tường kín
Đường bụi xe ào chạy vội qua 
 
Thảm lúa non tơ hết mượt mà
Nghĩa tình khói phủ lẫn sương pha
Đâu còn kỉ niệm thời thơ dại
Thấp thoáng hiện về giấc mộng xa
                           VN

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2016

Điểm diện nhà văn nhà thơ 34: Ngô Tất Tố

34. Ngô Tất Tố
     (1893-1954)

Tài ba thằng mõ cỡ chuyên viên
Chia xôi chia thịt lại chia quyền
Việc làng việc nước là như vậy
Lộn xộn cho nên phải tắt đèn.
                            Xuân Sách
-Tắt đèn: tiểu thuyết 1937
-Việc làng: phóng sự 194o
-…
Bài tham khảo

Gia đình nhà văn Ngô Tất Tố bức xúc về quyền nhân thân
Vợ chồng con gái nhà văn Ngô Tất Tố cho rằng sách “Lều chõng” và “Việc làng”, do NXB Hội nhà văn và Nhã Nam ấn hành, vi phạm quyền nhân thân. Trong khi đơn vị thực hiện phủ nhận cáo buộc này.
Nhà văn Ngô Tất Tố sinh năm 1894, mất năm 1954. Đến nay ông mất đã 60 năm, nên quyền tài sản của ông đối với các tác phẩm không còn (Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam quy định 50 năm). Tuy nhiên, quyền nhân thân được bảo hộ vĩnh viễn. Quyền nhân thân cho phép tác giả: “Bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác phẩm”.

Sách "Việc làng" do NXB Hội Nhà văn và Nhã Nam phát hành năm 2014.

Tác phẩm Lều chõng xuất hiện lần đầu trên báo “Thời vụ” năm 1939, được Nhà xuất bản Mai Lĩnh in thành sách năm 1941. Còn Việc làng đăng lần đầu trên báo “Hà Nội tân văn”, được NXB Mai Lĩnh in thành sách năm 1940. Hai tác phẩm này được nhiều nhà xuất bản in lại nhiều lần. Gần đây, con gái nhà văn - bà Ngô Thị Thanh Lịch cùng chồng - ông Cao Đắc Điểm - lên tiếng về những bản in mà theo họ là bị cắt xén nhiều đoạn. Cụ thể, đó là hai bản Lều chõngViệc làng do NXB Hội Nhà văn và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã Nam phát hành năm 2014. Cả hai cuốn đều nằm trong bộ “Việt Nam danh tác” do Nhã Nam thực hiện.
Trong buổi gặp với phóng viên VnExpress chiều 15/12, ông Cao Đắc Điểm cung cấp nhiều tư liệu liên quan đến các bản in Lều chõngViệc làng. Theo ông, bản in Lều chõng 2014 của Nhã Nam đã cắt bỏ gần 1.000 chữ và dẫn sai nội dung ở gần 20 chỗ so với bản đăng trên “Thời vụ” năm 1939. Ví dụ, bản 2014 của Nhã Nam cắt bỏ các đoạn: “Cô Nghè Thúy ngồi võng trong lễ vinh quy” - 79 chữ; đoạn “Bói Kiều” - 90 chữ; đoạn “xử phạt tội trai gái của một nho sĩ” - 196 chữ; đoạn “làm bài thuê ngay tại trường thi" - 282 chữ... Còn bản in Việc làng của Nhã Nam đã cắt bỏ hai đoạn văn, một ở “Phần VI - Góc chiếu giữa đình” và đoạn khác ở “Phần XII - Một tiệc ăn vạ”. Số chữ bị cắt là 789 chữ. 
Đại diện gia đình nhà văn Ngô Tất Tố còn chỉ ra nhiều chỗ trong sách in sai từ và cụm từ. Ví dụ, “vặt diệt” in sai thành “vật diệc”, “tiêu trường hạ” in thành “tiêu tường hạ”, “đãi dạ lai” in thành “đáo dạ lai”. Ngoài ra, ông Cao Đắc Điểm cho rằng Nhã Nam đã quá lộng hành khi ghi lên bìa lót của sách Lều chõng Việc làng năm 2014 dòng chữ: “Ấn bản đã được bảo hộ. Mọi hình thức xuất bản, sao chụp, phân phối, dưới dạng in ấn hoặc văn bản điện tử, đặc biệt là việc phát tán trên mạng Internet mà không có sự cho phép văn bản của Nhà xuất bản là vi phạm pháp luật…”. 
Với những dẫn chứng đưa ra, ông Cao Đắc Điểm rất bức xúc khi cho rằng bản in 2014 của NXB Hội Nhà văn và Nhã Nam đã vi phạm quyền nhân thân, được quy định trong luật Sở hữu trí tuệ. 

Hai công trình khảo cứu, biên soạn của vợ chồng ông Cao Đắc Điểm đã được bảo hộ (trên) và bản photo báo Hà Nội tân văn.

Ông Cao Đắc Điểm cho biết thêm từ hơn 10 năm nay, ông và vợ đã thực hiện các công trình khảo cứu về văn bản nhằm khôi phục, giám định nguyên bản gốc và khảo cứu các sai lệch khi tái bản các tác phẩm của Ngô Tất Tố. Các công trình này đã chính thức đăng ký, được Cục bản quyền cấp chứng nhận “bản quyền tác giả biên soạn” và “quyền chủ sở hữu”. Tuy nhiên, khi NXB Hội Nhà văn và Nhã Nam in sách đã không chịu tham khảo công trình khảo cứu của họ.
Trao đổi với phóng viên sáng 16/12, ông Vũ Hoàng Giang - Phó giám đốc công ty Nhã Nam - cho rằng họ không hề vi phạm quyền nhân thân của tác giả
Theo ông Giang, nhà xuất bản và nhóm thực hiện bộ sách “Việt Nam danh tác” đã ưu tiên in lại sách theo bản mà họ cho là bản in đầu tiên. Cụ thể, cuốn Lều chõng in theo bản của NXB Mai Lĩnh năm 1941, và Việc làng in theo bản của NXB Mai Lĩnh năm 1940. “Tôi nghĩ văn bản mà nhóm làm sách dựa vào là bản khả tín nhất. Ông Cao Đắc Điểm muốn nói bản nào giá trị hơn, thì có lẽ cũng cần phải đưa ra tư liệu cụ thể” - ông Giang nói. 

Các bản "Lều chõng" và "Việc làng" in năm 2014 của Nhã Nam (trên) và của NXB Mai Lĩnh (dưới)

Với ý kiến của ông Cao Đắc Điểm cho rằng Nhã Nam tự ý cắt bỏ nhiều chỗ, ông Giang nói: “Ấn bản Lều chõng Việc làng của Nhã Nam và NXB Hội nhà văn không tự ý cắt bỏ bất cứ đoạn văn nào so với hai bản in của NXB Mai Lĩnh. Nếu như ông Điểm so với bản in trên báo thì đó là quan điểm nghiên cứu riêng của ông, không thể coi là bắt buộc áp đặt cho cả giới nghiên cứu và xuất bản được”. 
Về các lỗi in sai từ, ông Giang cho biết: “Chúng tôi có biết ông Điểm thống kê những lỗi morat do quá trình biên tập và chế bản ở hai cuốn sách. Ông nêu ra sáu lỗi chính tả ở bản Việc làng và tám lỗi chính tả ở bản Lều chõng. Về mặt làm nghề mà nói, sai lỗi chính tả là điều mà không một đơn vị xuất bản nào mong muốn. Chúng tôi xin ghi nhận và sẽ kiểm tra lại và nếu đúng thì sẽ chỉnh sửa khi tái bản”.
Không đồng ý với ý kiến cho rằng nhóm làm sách đã lộng hành khi in dòng chữ trên bìa lót, ông Giang nói: “Dòng chữ ‘Bản quyền tác phẩm đã được bảo hộ…’ chỉ là một mẫu câu công thức, mà các đơn vị xuất bản trong và ngoài nước vẫn ghi, mang tinh thần thượng tôn pháp luật nói chung, để cảnh báo ngăn cản việc làm sách giả, sách lậu, in ấn và làm ebook trái phép… mà thôi. Đó chỉ là suy diễn do hiểu nhầm, chứ dòng ghi nhận bản quyền đó không hàm ý gì đến việc xác lập quyền sở hữu một tác phẩm cụ thể nào. Ai làm trong ngành xuất bản cũng đều rõ điều đó”. Đại diện Nhã Nam cho rằng phía gia đình nhà văn Ngô Tất Tố đã quá suy diễn đối với mẫu câu chuẩn mực này.
Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân là người đang nghiên cứu nhiều văn bản tác phẩm văn học cũ, đồng thời tham gia cộng tác và viết lời giới thiêu cho tác phẩm này. Ông khẳng định NXB Hội Nhà văn và Nhã Nam không vi phạm quyền nhân thân của Ngô Tất Tố. Ông nói: “Khi làm sách người ta có quyền chọn văn bản. Bản thân văn bản đó như thế nào phụ thuộc vào trình độ ngành nghiên cứu văn bản của nước ta. Tôi biết người nhà Ngô Tất Tố có căn cứ vào một văn bản để khẳng định đó là toàn vẹn. Nhưng đó là một nghiên cứu riêng, giống như ý kiến của nhà chú giải này ở bên cạnh nhà chú giải khác, chúng đứng cạnh nhau chứ không có ai vi phạm ai”. 
Thạc sĩ Luật Sở hữu trí tuệ Điêu Ngọc Tuấn sau khi xem xét sự việc đã cho rằng: “chưa đủ cơ sở để khẳng định đơn vị làm sách có hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác giả". "Theo Luật Sở hữu trí tuệ thì việc sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả mới bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả. Ở đây chưa thấy Nhã Nam có hành vi này”. 
Ông Điêu Ngọc Tuấn phân tích trên ba luận điểm chính:
Thứ nhất, hai bản mà NXB Hội Nhà văn xuất bản (như khẳng định của Ông Vũ Hoàng Giang) là nguyên vẹn từ bản in thành sách lần đầu của NXB Mai Lĩnh ấn hành (năm 1940, 1941) khi Ngô Tất Tố còn sống. Ngoại trừ những lỗi morat thì Nhã Nam không tự thực hiện việc sửa chữa, cắt xén hay xuyên tạc nào đối với tác phẩm. Như vậy, nếu nói là sửa chữa, cắt xén thì là từ bản in của NXB Mai Lĩnh chứ không phải là do Nhã Nam.
Thứ hai, chưa đủ cơ sở để nói hai ấn bản được nêu ra (bản in trên báo và bản in sách của NXB Mai Lĩnh) đâu là bản chuẩn hoàn thiện của tác phẩm. Có thể bản in trên báo (công bố trước) là bản gốc của tác phẩm nhưng bản in sách sau đó của Mai Lĩnh hoàn toàn có thể đã được tác giả sửa chữa hoặc tác giả cho phép sửa chữa trước khi in thành sách cho phù hợp mục đích hoặc bối cảnh xuất bản. Hiện nay, khi tác giả đã mất thì, trừ khi có bằng chứng rõ ràng tác giả khẳng định đâu là bản hoàn thiện của mình, không ai có thể thay tác giả để khẳng định đâu là bản chuẩn.
Thứ ba, bản in do Mai Lĩnh phát hành (năm 1940, 1941 khi tác giả vẫn còn sống) đã được sửa chữa, cắt xén so với bản đăng trên báo trước đó nhưng không thấy có bằng chứng thể hiện việc tác giả khiếu kiện, phàn nàn hay phản đối. Điều này cho thấy khi đó tác giả không cho rằng đó là sự sửa chữa, cắt xén gây phương hại đến danh dự và uy tín của mình. 
Ông Điêu Ngọc Tuấn cũng cho rằng việc cáo buộc Nhã Nam vi phạm quyền nhân thân của tác giả có thể xuất phát từ nhiều lý do, nhưng cũng có thể do sự thiếu thống nhất trong quan điểm đâu là ấn phẩm chuẩn nhất của tác giả; cũng như sự thiếu thống nhất về cách hiểu sửa chữa, cắt xén tác phẩm như thế nào là vi phạm quyền nhân thân. 
Lam Thu

Tháng mười!




“Bao giờ cho đến Tháng Mười”*?!...

Như là hẹn ước. Như lời Diêu bông.

Khẽ khàng một chút ngóng trông

Thẫn thờ một chút chạnh lòng cái mơ.

Mùa đi xa đến hững hờ

Tháng Mười…khắc khoải…bao giờ đến đây!!
VA
 
  *: Tên một bộ phim

VỤ GẶT

Kết quả hình ảnh cho vụ gặt
 
Tháng mười gió lạnh mênh mang
Ngọt ngào trải ánh nắng vàng miền quê
Trên đường chuyển lúa say mê
Em gồng gánh cả ước thề niềm mong
Vui sao tiếng hát trên đồng
Ngân nga, thao thức gọi lòng người xa
Bộn bề rơm rạ thiết tha
Thóc vàng thơm thảo quê nhà tình em.

                                                                                                                       VN

LỄ TRAO HUÂN HUY CHƯƠNG CỦA NHÀ NƯỚC CHDCND LÀO CHO "QUÂN TÌNH NGUYỆN & CHUYÊN GIA QUÂN SỰ VIỆT NAM" LÀ NGƯỜI NAM SÁCH

         Nhân kỷ niệm 67 năm ngày truyền thống của “Quân tình nguyện & Chuyên gia quân sự Việt Nam giúp Lào” (30/10/1949 - 30/10/2016), thừa ủy quyền của chủ tịch nước CHDCND Lào, sáng ngày 30/10/2016, tại trung tâm hội nghị huyện Nam Sách, UBND huyện Nam Sách đã tổ chức trao tặng 81 huân chương Kháng Chiến (Isxala) & huy chương Tự Do cho 81 CBCS” Quân tình nguyện & chuyên gia Quân sự Việt Nam” là những người con của quê hương Nam Sách, đã đóng góp nhiều công lao cho sự nghiệp cách mạng và chiến tranh giải phóng các dân tộc Lào. Tới dự buổi lễ trọng thể này, ngoài 81 CBCS “Quân tình nguyện & Chuyên gia quân sự Việt Nam” được trao tặng huân huy chương đợt này còn có đại diện lãnh đạo bộ chỉ huy quân sự, hội hữu nghị Việt - Lào và  ban liên lạc “Quân tình nguyện và chuyên gia quân sự Việt Nam” tỉnh Hải Dương. Ở huyện, các Đ/C bí thư huyện ủy, chủ tịch UBND huyện Nam Sách, cùng lãnh đạo các phòng ban của huyện ủy & UBND huyện Nam sách, đại diện các ban liên lạc QTN & CGQSVN các huyện Thanh Hà, Kinh Môn, TP Hải Dương, TX Chí Linh, phóng viên đài phát thanh và đông đảo các ca sỹ thuộc TT biểu diễn ca múa nhạc tỉnh Hải Dương cũng đến tham dự
    Blog “Tri Ân Cuộc Đời” Tạ Anh Ngôi được chính phủ CHDCND Lào trao tặng Huân chương Kháng Chiến hạng nhất và vợ là bà Nguyễn Thị Sâm cũng được chính phủ nhà nước CHDCND Lào trao tặng Huy chương Tự Do hạng nhất trong đợt này
    Buổi lễ đã diễn ra trong bầu không khí thắm tình hữu nghị giữa 2 dân tộc và 2 nước Việt Nam và CHDCND Lào. Dưới đây là một số hình ảnh của buổi lễ trang trọng này, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc gần xa:
                                                      
Nguyễn Thị Sâm "thủ trưởng cả đời" của Tạ Anh Ngôi
Blog"Tri Ân Cuộc Đời"Tạ Anh Ngôi tại buổi lễ
2 vợ chồng cùng nhận huy chương
Bí thư huyện ủy Nguyễn Xuân Hùng tặng lẵng hoa cho đại diện
ban LL"Quân tình nguyện & Chuyên gia QS Việt Nam giúp Lào"
huyện Nam Sách
Ông Bùi Văn Thăng,chủ tịch UBND huyện Nam Sách trao 
Huy chương Tự Do cho bà Nguyễn Thi Sâm
Tác giả Tạ Anh Ngôi nhận Huân chương Kháng chiến hạng Nhất
Của chính phủ CHDCND Lào trao tặng
 
Nam Sách, ngày 30-10-206
Photo & Giới thiệu :Tạ Anh Ngôi

Thứ Bảy, 29 tháng 10, 2016

CHÚC MỪNG


               HOA CHÚC MỪNG 108 - ĐẠI CÁT ĐẠI LỢI

       TRIANCUOCĐOI trân trọng chúc mừng thày Đỗ Đình Tuân và thày Thanh Dạ được trao giải thưởng Văn học - Nghệ thuật Côn Sơn của tỉnh Hải Dương.
       Các tác phẩm được giải: 
1. Vần và Tứ của thày Đỗ Đình Tuân - giải Ba. 
2. Cõi yêu của thày Thanh Dạ - giải Khuyến khích. 
     Đây là niềm vinh dự và tự hào của Blog TRIANCUOCĐOI. Kính chúc các thày trí lực, tâm lực và sức lực dồi dào để bút lực ngày càng sung mãn. 
       Trân trọng chúc mừng.

Điểm diện nhà vă, nhà thơ 33: Chu Văn

33. Chu Văn
    (1922-1994)

Một con trâu bạc già nua
Nhờ cơn bão biển thổi lùa lên mây
Trâu ơi ta bảo trâu này
Quay về đất mới kéo cày cho xong.
                                  Xuân Sách
 
Bài tham khảo


NHÀ VĂN CHU VĂN
VÀ NHỮNG ỨNG XỬ THI CA

        Cuối năm 1967, tại nơi sơ tán của Ty Văn hoá Nam Hà, thôn Đức Bản, xã Nhân Nghĩa, huyện Lý Nhân, Hà Nam có một cuộc chia tay cảm động: tiễn nhà văn Chu Văn vào chiến trường. Người đi trong trang phục thời chiến bên dòng sông Châu tháng Chạp giá lạnh, gợi cái ý vị "Tiễn biệt bên sông Dịch": Thử địa biệt Yên Đan/ Tráng sĩ phát xung quan (Nơi này biệt Yên Đan/ Tóc tráng sĩ dựng ngược -Thơ Lạc Tân Vương). Giữa những đồng nghiệp, đồng chí vừa chuẩn bị xong số Sáng tác xuân Mậu Thân, Chu Văn xúc động đọc một bài thơ ứng tác "Chia tay":
                             "Chia tay nhằm thẳng nẻo tiền phương,
                              Hỏi lại lòng ai có vấn vương?
                             Việt Bắc gọi vào nơi tuyến lửa,
                             Miền Nam yêu dấu nghĩa quê hương.
                             Đánh giặc, giữ nhà, đôi gánh nặng,
                             Cây chông, ngòi bút một con đường.
                             Xa nhau là để gần nhau mãi,
                             Mưa nắng hề chi vượt dặm trường".
      Bài thơ ứng tác nói được cái chí của người từng trải cuộc kháng chiến chống Pháp, khi đất nước bước vào giai đoạn chiến đấu ác liệt chống chiến tranh phá hoại miền Bắc, chuẩn bị tổng tấn công giải phóng miền Nam. Thơ nói được tâm lý của các nhà văn, nghệ sĩ  lúc bấy giờ: "Dẫu một cây chông trừ giặc Mỹ/ Hơn nghìn trang giấy luận văn chương" (Tố Hữu).
     Chu Văn đến chiến trường. Trong chuyến đi thực tế dài ngày tại các vùng trọng điểm mặt trận Đông Trường Sơn với đoàn văn nghệ sĩ Phòng Văn nghệ Quân đội: Chính Hữu, Hải Hồ, Ngô Văn Phú, Sĩ Hanh, Trọng Khoát, Vũ Minh, Đồng Văn Thuyết..."nhà văn dân sự" Chu Văn nhanh chóng thích nghi như một chiến binh thực thụ. Những lần bị vây, những lần bị bom đạn rượt đuổi, những lần mưa lũ lở núi, sạt hầm hút chết. Ông cũng có dịp chia sẻ miếng lương khô, hớp nước cuối trong bi đông với cán bộ, chiến sĩ nơi trận mạc để được thực mục sở thị bộ mặt chiến tranh tàn bạo của kẻ xâm lược. Ông thay mặt Tỉnh uỷ Nam Hà đến uý lạo lực lượng thanh niên xung phong ở chiến trường. Dọc đường Trường Sơn, ông hai lần thay mặt Tỉnh uỷ tặng quà, động viên anh chị em cán bộ diễn viên văn công xung kích phục vụ chiến trường, đoàn Chèo Nam Hà, tại binh trạm Đoàn 559. Gần một năm có mặt ở chiến trường khu V, ông may mắn không bị "dính" bom, pháo nhưng ra Bắc hàng năm còn bị những cơn sốt rét rừng hành hạ.
    Năm 1974, nhà văn Chu Văn còn đi thực tế chiến trường một chuyến nữa, vào Phước Long, miền Đông Nam Bộ, trong đoàn công tác của Tỉnh uỷ Nam Hà. Chuyến đi theo tuyến Tây Trường Sơn thuận lợi hơn, ông không quên bài thơ nhà viết kịch Tào Mạt chia tay ông ở một binh trạm Đông Trường Sơn ngày nào:  
TẶNG CHU HUYNH
                             Chấp Kim Tinh bút hướng Nam dao,
                             Đông hải minh thiên khởi nộ đào.
                             Bác viết :"Văn nhân giai chiến sĩ",
                             Dục vi Quan Vũ tất huy đao.
                                                                        Tào Mạt
      Bài thơ chữ Hán, thủ bút của Tào Mạt năm 1967 đưa tặng nhà văn, mãi đến năm 1992, tạp chí Văn nghệ Hà Nam Ninh tổ chức trang "Mừng thọ nhà văn Chu Văn 70 tuổi" ông mới đưa in (cùng bản "tạm dịch" của Phạm Trọng Thanh):
                             TẶNG ANH CHU VĂN
                             Dắt bút Kim Tinh kịp chuyến vào,
                             Dậy trời sóng giận bể dồn cao.
                             Bác nói:"Nhà văn là chiến sĩ",
                             Muốn làm Quan Vũ phải hoa đao.
     Với nhà văn Chu Văn, trong mỗi chuyến đi ấy, trang sổ tay của ông càng đầy lên những ý đồ sáng tác, những hình tượng trong chiến đấu, không thể ngồi ở nhà mà "bịa" được. Những năm tháng ấy thuộc về sự dũng cảm của nghĩa lớn, khí phách và tâm hồn của một thời oanh liệt. Chất liệu thực tế ngồn ngộn, vốn sống dày dặn, tài năng văn chương cất cánh, ông là nhà văn thành đạt chậm nhưng vững chãi, bề thế với những tác phẩm: Bão biển, Đất mặn, Giáp mặt, Sao đổi ngôi, Mây thành (tiểu thuyết); Con đường lầy, Cô lái đò sông Ninh, Ánh sáng bên hàng xóm, Hương cau hoa lim, Bông hoa trắng, Mùa chim phượng bay về,Tiếng hát trong rèm, Ngọc tương tư (truyện ngắn); Tiếng hát trên sông (bút ký),Tuyển tập Chu Văn... "Nhà văn chiến sĩ" Chu Văn được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Ba năm 1989 và truy tặng giải thưởng Nhà nước (đợt I) năm 2001, lúc ông qua đời vừa đúng 7 năm.
     Thành đạt ở tiểu thuyết, truyện ngắn... nhưng nhà văn Chu Văn lại khởi sự văn nghiệp từ thi ca. Xuất thân trong một gia đình Nho học ở Đông Quang, Đông Hưng, Thái Bình, Chu Văn có một thời hoa niên thích làm thơ, xem chèo, diễn kịch. Khi trở thành cán bộ hoạt động cách mạng ở Thái Bình, Hải Phòng, Nam Định thì cái sở thích thuở thiếu niên lại trở thành phương tiện cho công tác tuyên truyền. Tác phẩm đầu tay của Chu Văn là truyện thơ "Ai qua Phát Diệm". Ông còn viết vở chèo "Cô gái làng Dương", được dàn dựng và được Văn nghệ in năm1955.Truyện thơ của ông là chuyện chống cưỡng ép di cư năm 1954, được phổ biến và khơi mào cho các truyện thơ ra đời ở Nam Định sau đó: "Cô gái tóc trắng" (Bạch Mao Nữ) của Trần Tường,"Lấn biển Đông" của Kim Ngọc Diệu...
      Năm 1962, đoàn Chèo Nam Định đưa điệu thức "cung văn hầu bóng" thành tiết mục hát văn. Và người soạn lời mới cho tốp nữ múa hát là nhà văn Chu Văn. Tiết mục thành công rực rỡ trên sàn diễn. Riêng tôi, mỗi lần nghe lại tiếng đàn nguyệt của nghệ sĩ Thế Tuyền, giọng hát văn của tốp nữ do nghệ sĩ Kim Liên lĩnh xướng năm ấy, tôi thấy lòng mình nhuần thắm lại:
                             Hỡi cô thắt dải lưng xanh
                             Có về Nam Định với anh thì về.
                             Dạt dào gió lượn ven đê,
                             Đồng thơm hương cốm, cây che rợp làng.
                             Biển xanh, cá bạc, tôm vàng
                             Buồm căng lộng gió thênh thang ra vào
                             Sông Ninh, sông Đáy, sông Đào
                             Phù sa lớp lớp nao nao sóng dồi
                             Chiều trưa vang dậy tiếng còi
                             Đường xưa bến Vị, non Côi nượp người...
                                               ( Nam Định quê tôi -1962 )
     Với cương vị Tổng biên tập Tập san Sáng tác của Ty Văn hoá Nam Hà rồi Tổng biên tập tạp chí Văn nghệ Hà Nam Ninh, chủ tịch Hội đồng Tủ sách Quê hương...cách "điều binh khiển tướng" của ông cũng thật đáng nể. Từ lúc dựng đề cương, phân công viết, đặt bài, phân công biên tập... đến ngày tổng duyệt, nhất nhất mọi việc đều có tâm lực của ông. Thiếu bài thì viết bổ sung, có khi viết lại cả một bài dài mà không cần đứng tên.Thơ xuân, câu đối Tết, nhiều phen ông Tổng biên tập phải "bù" dưới các bút danh Thạch Mã, Kim Mã, Nghĩa Thanh...
      Còn đó những vế mời đối, thách đối của Thạch Mã, Kim Mã ...bao năm chưa có người đối được.Trên số Tết năm 1970 tập san Sáng tác Nam Hà, nói về Bác kính yêu sau ngày Bác đi xa:
          Người là Cha, là Bác, là Anh
          Chết như sống anh hùng vĩ đại !
      Nhà văn ghép hai câu thơ Tố Hữu trong bài "Sáng tháng Năm" và trong bài "Hãy nhớ lấy lời tôi" để mời đối. Hay như vế thách đối đầu năm 1967 (trên tập san Sáng tác Nam Hà), đùa các chiến sĩ phòng không (cao xạ pháo, tên lửa), ông viết: Tiểu đội phòng không, mười hai cậu đều không có vợ!
     Thuộc thơ Việt, thơ Đường, thơ Pháp, Chu Văn là người biết làm giàu vốn hiểu biết của mình, chủ yếu là tự học.Tiếng Pháp đủ để giao tiếp, chữ Hán đủ để đọc các nguyên bản. Ngoài sáu mươi tuổi, ông còn theo học tiếng Anh khá chăm chỉ. Đọc sách và nhớ sách. Ông yêu thi ca, niềm yêu của một trí thức Nho học, tâm đắc câu nói của Khổng Tử: "Hứng ư thi, lập ư lễ,thành ư nhạc" (Hứng khởi trước điều thiện là nhờ thi ca, đứng vững trước mọi việc đời là nhờ ở lễ và hàm dưỡng được nội tâm chính đáng là nhờ ở sự hài hoà của âm nhạc).
      Thơ ông viết, có lẽ sự chú tâm đầu tiên là khí chất toàn cục? Ở bài Xuân đề, nguyên tác chữ Hán, in trên "tờ hoa" tập san Sáng tác Nam Hà số Tết Bính Thìn (1976), mừng đất nước thống nhất, ông viết:
                             Vạn lý đào hoa tiếp cẩm vân,
                             Sơn hà phong cảnh tổng hồi xuân.
                             Tứ thiên niên quốc trùng hưng hội,
                             Thành dã ca thanh xứ xứ văn.
                                                         (Xuân đề- Nghĩa Thanh)
    Tác giả tự dịch:
                             ĐỀ THƠ XUÂN
                             Dặm xa, mây thắm hoa đào,
                             Non sông rầy đã bước vào hồi xuân.
                             Nông thôn, thành thị xa gần,
                             Hát mừng nước bốn nghìn năm vươn mình.
      Mùa xuân năm 1977, Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh nhận một yêu cầu "đền ơn đáp nghĩa" do Ty Thương binh -Xã hội đề xuất. Tỉnh cần có thơ, câu đối làm thành hai bức trướng kính viếng các liệt sĩ tại nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn.Còn nhớ, tại trụ sở Hội sớm xuân ấy tề tựu đủ cán bộ biên tập, sáng tác của cơ quan. Đồng chí cán bộ Ty Thương binh-Xã hội, nhà văn Chu Văn chủ tịch Hội, nhà viết kịch Hồng Vũ, phó chủ tịch Hội lần lượt phát biểu, nêu ý tưởng,chủ đề. Một cuộc "Phát động sáng tác" bắt đầu và thời hạn chỉ có một tuần thôi, tất cả chúng tôi cùng vào cuộc. Đến hẹn, chúng tôi cùng nộp bài, một cuộc bình văn do nhà văn Tổng biên tập chủ trì khá sôi nổi. Điều đáng nói là thơcâu đối đã chọn đều được chủ và khách hài lòng.
       Câu đối được chọn (của nhà thơ Vũ Quốc Ái):
                   Đất nước nhớ anh hùng, hồn vang động trống đồng Ngọc Lũ,
                   Quê hương ơn liệt sĩ, tên sáng ngời bia đá Trường Sơn !
      Bài thơ được chọn (của nhà văn Chu Văn):
                             Trai tài, gái giỏi Hà Nam Ninh,
                             Nghĩa Đảng, tình dân, hiến trọn mình!
                             Tiếng hát Trường Sơn muôn thuở vọng,       

                                Ngời trang sử mới ánh bình minh.
      Nhà văn Chu Văn là người quí trọng nhân tài. Mùa thu năm 1970, tại thành phố Nam Định còn ngổn ngang công sự và ụ pháo phòng không, Ty Văn hoá Nam Hà tổ chức Lễ kỷ niệm 100 năm, ngày sinh nhà thơ Trần Tế Xương (1870-1970), có sự tham gia của Viện Văn học và Hội Nhà văn Việt Nam. Là Trưởng Ty Văn hoá, ông đứng ra lo liệu mọi việc cùng với cán bộ của nhiệm sở, các cố lão Vị Xuyên và thân tộc nhà thơ. Lần đầu tiên, một lễ kỷ niệm danh nhân văn học quê hương được tiến hành thật trang trọng. Sự nghiệp thi ca của nhà thơ thành Nam được nhìn nhận,đánh giá một cách thoả đáng, góp phần khẳng định Trần Tế Xương là nhà thơ lớn của dân tộc, giai đoạn lịch sử cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Phần mộ nhà thơ dời từ Cồn Vịt về công viên Vị Xuyên. Tuyển tập Thơ Trần Tế Xương 100 bài được biên khảo, hiệu đính, xuất bản với bài tiểu luận xuất sắc"Đọc thơ Tú Xương" của nhà thơ Xuân Diệu cùng Lời giới thiệu của nhà văn Chu Văn. Ông viết: "Xã hội thực dân phong kiến với các thứ rác rưởi, chướng tai gai mắt từng làm rầy nhà thơ lớn Trần Tế Xương đã  dứt khoát trôi đi không bao giờ còn trở lại... Trần Tế Xương vẫn sống mãi trong tâm hồn người Nam Định. Nhà thơ lớn là niềm tự hào, như người ta vẫn tự hào về lịch sử oai hùng của địa phương còn ghi trong các văn bia nơi chùa Phổ Minh, đền Cố Trạch. Cả một nền văn học đất Sơn Nam, xây dựng từ bao đời với những tru cột vững vàng như Nguyễn Khuyến,Trần Tế Xương, được bồi đắp, xây dựng thêm, đã đóng góp được những người như Nam Cao... và sau này với vị trí quan trọng của tỉnh Nam Hà, nền văn học đó còn rực rỡ biết bao nhiêu nữa".
    ..."Chúng ta không đòi hỏi ở Trần Tế Xương những gì mà ông không có. Riêng mặt cống hiến về văn học của nhà thơ thiên tài ấy đã đủ làm vinh quang cho quê hương non Côi, sông Vị". (Trích lời giới thiệu Tuyển tập Thơ Trần Tế Xương, Ty Văn hoá Nam Hà, 1970, tr. 9).
      Mùa xuân năm 1985, nhân kỷ niệm 150 năm sinh Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến, Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh phối hợp với Viện Văn học và Trường Đại học Sư phạm Hà Nội I tổ chức Hội thảo Khoa học về thân thế, sự nghiệp nhà thơ. Hội thảo đã quy tụ nhiều nhà nghiên cứu văn học, cán bộ giảng dạy, các giáo sư, học giả hàng đầu toàn quốc về thành phố Nam Định. Nhiều tham luận chuẩn bị công phu, đóng góp những nhận định sâu sắc về vị trí, tài năng của Nguyễn Khuyến trong nền văn học Việt Nam. Tuy nhiên, tại hội thảo, cũng có những "lập luận" phát sinh mâu thuẫn làm cho các nhà tổ chức những ngày cuối cảm thấy bối rối vì xu hướng phân tán, có thể dẫn đến việc hội thảo không thành công, không đạt được mục đích.
      Nhà văn Chu Văn được phân công tổng kết hội thảo. Sau một đêm chong đèn chấp bút, bản báo cáo tổng kết của ông khi đọc lên, mọi người đều thấy năng lực tổng hợp, phân tích rất vững vàng, thấu lý, đạt tình. Báo cáo tổng kết Hội thảo Khoa học về nhà thơ Tam nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến của Chu Văn đã đánh giá một cách khoa học, xác đáng với tất cả các bản tham luận, các ý kiến trao đổi của các nhà nghiên cứu, những thẩm định thấu đáo, công bằng của các học giả. Báo cáo tổng kết hội thảo dẫn đến việc mọi người đồng thuận thừa nhận vị trí xứng đáng của cụ Tam nguyên Yên Đổ trong lịch sử văn học Việt Nam. (Xin đọc thêm Thi hào Nguyễn Khuyến đời và thơ -Viện Văn học- Nguyễn Huệ Chi chủ biên- NXB Giáo dục, Hà Nội,1994).
      Cùng năm 1985, Hội Văn học Nghệ thuật Hà Nam Ninh, Nhà xuất bản Văn học tiến hành liên kết xuất bản Tuyển tập Nguyễn Bính sau hai mươi năm vắng bóng thi nhân.Việc làm thủ tục xuất bản tưởng không có khó khăn gì. Thế nhưng việc "đưa" Nguyễn Bính trở lại với bạn đọc trong Nam, ngoài Bắc đã có những vướng mắc phải tháo gỡ. Chính nhà văn Chu Văn đã "gõ cửa những người có trách nhiệm ở Trung ương và địa phương" để Tuyển tập Nguyễn Bính đến với bạn đọc năm 1986, làm nên một "hiện tượng xuất bản" thời điểm ấy. Cùng với "Lời giới thiệu" của nhà văn Tô Hoài, nhà văn Chu Văn đã viết "Lời bạt" với cả tấm lòng nhân hậu và quí trọng nhà thơ "Chân quê" Nguyễn Bính.
      "Ông cũng là người luôn quan tâm sâu sát tới các văn nghệ sĩ có hoàn cảnh khó khăn. Ông trực tiếp đề xuất với lãnh đạo tỉnh để lão hoạ sĩ Nguyệt Hồ được sửa chữa gian nhà cho cao ráo, sáng sủa hơn, cùng nghệ nhân ca trù Đặng Thị Sim có một khoản trợ cấp giảm bớt khó khăn cuộc sống. Ông trực tiếp can thiệp với người có trách nhiệm để mẹ con bà Trần Thị Lai, vợ nhà thơ Nguyễn Bính có chỗ ở yên ổn. Cuối năm, ông nhắc nhở Văn phòng Hội có quà thăm hỏi gia đình nhà văn Nam Cao, mẹ nhà văn Nguyễn Thi và một số văn nghệ sĩ có hoàn cảnh khó khăn. Hàng năm vào dịp Tết, cơ quan Hội tổ chức họp mặt gia đình anh chị em cán bộ công nhân viên cơ quan. Chẳng mâm cao cỗ đầy gì, nhưng là một dịp để mọi người được sum họp trong không khí gia đình ấm áp". (Lương Đức Vinh - "Nhà văn Chu Văn, tôi đã từng ở gần ông"- Bài gửi tạp chíVăn nhân,2004).
      Lao động nghệ thuật nói chung, sáng tác thi ca nói riêng, là những ứng xử văn hoá."Văn tức là người". Với nhà văn Chu Văn - vị Tổng biên tập uy tín của tạp chí Văn nghệ Hà Nam Ninh đã quá cố, những ứng xử cho thấy "một cốt cách tâm hồn nhà văn - kẻ sĩ đáng trọng", đúng như lời nhà thơ Nguyễn Bính sinh thời đã nói về ông.
Phạm Trọng Thanh
(Rút trong tập Thức cùng trang viết - NXB Hội Nhà văn, 2008)