Trước nay, cứ mỗi dịp tết đến xuân về, xóm Trian nhà ta thường có những
cuộc chơi câu đối cùng nhau khá thú vị. Tuy nhiên số người tham gia vào trò
chơi này không nhiều và thường là những vế đối lại hay còn quá ít ỏi nhưng xem
ra cũng rôm rả lắm. Lần này, dù còn lâu mới đến tết nhưng đã thấy bác Đỗ ra vế
đối rồi. Tôi đồ rằng do hồi rầy phong trào sáng tác của xóm có vẻ trầm lắng và
nghèo đi nên bác Đỗ muốn khuấy động nó lên. Ngoài ra chắc bác cũng còn muốn mọi
người bàn luận về cuộc sống thực thông qua hai câu tục ngữ nữa chăng? Vì thế mà vẫn là trò chơi đối đáp nhưng lần này đã
mang thêm nét mới vậy.
Nguyên văn bài ra của bác Đỗ đây:
TRÒ CHƠI CŨ CHO MỘT MÙA VUI MỚI Tục ngữ xưa có câu:
Hay khen, hèn chê
Nhưng cũng có câu:
Lời nói chẳng mất tiền mua
Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.
Câu thư nhất khuyên người ta nói thật lòng mình:
Hay thì phải khen, hèn thì phải chê.
Còn câu thư hai lại khuyên người ta phải nói nịnh:
nói cốt để vừa lòng đối tượng, chứ không tính đến những suy nghĩ thật của mình cho là đúng hay sai, phải hay trái, hay hay hèn ?
Ta nên theo câu nào đây?
Sau đây là suy nghĩ của tôi qua một vế đối:
-HAY KHEN, HÈN CHÊ; MIỆNG THẾ XƯA NAY VẪN THẾ;
Mong bà con dự đối và cùng bàn luận, xem như một “Trò chơi cũ cho một mùa vui mới”.
25/10/2014
Đỗ Đình Tuân
Trước
hết tôi xin tham gia bàn luận đôi lời. Về câu tục ngữ: “Hay khen hèn chê” là
người xưa muốn khái quát cái lẽ tự nhiên trong cuộc sống. Thường thường thì
thấy bất cứ sự việc, hiện tượng hay con người nào đó hay, tốt, đẹp…thì người ta
thường trầm trồ khen ngợi hoặc tỏ ý thích thú thán phục. Ngược lại thấy những
cái xấu, cái dở, cái không hay… người ta thường hay chê bai, dè bỉu hoặc tỏ vẻ
không thích thú hay phản đối v…v…
Còn về
câu tục ngữ:
Lời
nói chẳng mất tiền mua
Lựa
lời mà nói cho vừa lòng nhau
Ở đây người xưa muốn khuyên nhủ con người hãy lựa chọn
lời mà nói sao cho dễ nghe nhất để người đối thoại cùng ta được vừa lòng. Theo
thiển ý của tôi thì câu này không hẳn là người xưa khuyên chúng ta chỉ khen
thôi hoặc chỉ dùng cách nói lấy lòng người để làm người nghe vừa lòng. Mà có lẽ, người xưa chỉ muốn nhắc nhở cháu con hãy cân
nhắc, lựa chọn kỹ càng trước khi nói. Có thể là khen nhưng cũng có thể là chê
nhưng từ ngữ và cách nói sao đó để người nghe hài lòng nhất. Tôi nghĩ, khen mà
khen quá lên thì chưa chắc người nghe đã thích. Ví như một người đẹp cỡ vừa phải thôi
nhưng ta khen đẹp hơn Kiều hoặc thậm chí là văn hoa mà khen rằng: sắc đẹp của
em nếu nàng Kiều của cụ Nguyễn Du sống lại cũng phải thẹn… thì có khi lại làm
cho người đẹp thấy xấu hổ. Hoặc một sáng kiến nhỏ bé mà cứ tâng bốc lên rồi cho
rằng hơn cả phát minh của những nhà khoa học lỗi lạc trên thế giới này thì ai
mà chấp nhận được. Khen đã khó, chê còn khó hơn nhiều. Chê làm sao cho người bị
chê cảm thấy bằng lòng thì quả là khó lắm thay. Cái này một mặt đòi hỏi người
nói phải biết lựa lời nói và cách nói sao cho vẫn diễn tả đúng điều mình muốn
chê mà lại vẫn tỏ ra trân trọng người bị chê nữa; Một mặt người bị chê cũng
phải là người hiểu biết, cầu thị, không tự phụ thì mới dễ dàng tiếp thu được. Điều
này theo tôi vừa là một ưu điểm nhưng cũng vừa là một nhược điểm của người Việt
Nam ta nói riêng và người dân một số nước phương đông nói chung. Ưu điểm là làm
cho cách sống, cách giao tiếp ôn hòa, lịch thiệp, nhẹ nhàng hơn. Nhưng nhược
điểm chính của nó là làm cho cách nói trở nên vòng vo tam quốc, cái nhược, cái
xấu được phủ mờ đi, thường đi. Nguy hiểm nhất là lâu dần tạo nên một tâm lý của
con người chỉ thích khen, không thích chê, chỉ thích khoe những cái tốt mà giấu diếm đậy điệm hết cái xấu lại, không dám nhìn thẳng vào sự thật,
vào cái xấu cái kém để sửa đổi, khắc phục vươn lên khiến cho con người và cuộc
sống cũng như xã hội chậm phát triển vậy
Cố
nhiên nói như thế không có nghĩa là tôi muốn tốt nhất cứ nói toạc móng heo tất
cả, nói trắng phớ tất cả cái xấu ra. Mà tôi nghĩ rằng trong cuộc sống phải tùy vào những trường hợp cụ thể nhất định mà xử lý sao cho thấu lý đạt tình. Ví như cái xấu, cái khiếm khuyết của những con
người thiệt thòi do trời bắt tội thế thì ta không nên đem ra mà bàn tán, chế
giễu hoặc chê bôi dù là chê bằng lời nói cẩn trọng nhất vì như thế là xúc phạm
người ta. Hoặc những cái dở của một ai đó, một cái gì đó, không làm ảnh hưởng
tới người khác và người ta cũng không nhờ mình nói ra thì tốt nhất là mình cũng
chẳng cần nói làm gì. Nhưng những cái xấu, cái kém, cái dở làm ảnh hưởng lớn
đến con người đến xã hội thì cần thiết phải được nói thẳng nói thật thậm chí là dò đến “ngọn nguồn lạch sông” để tìm cách khắc phục thì mới mong có được điều
tốt đẹp vậy.
Bàn
luận về vấn đề này quả thật là rộng quá, khó có thể bằng một vài lời mà thấu
đáo cho được. Nhưng trước vấn đề bác Đỗ Đình Tuân đặt ra, tôi xin sơ qua đôi
lời như vậy coi như phần nào bày tỏ ý kiến của mình. Nếu có điều gì chưa ổn,
mong được sự trao đổi tận tình của mọi người.
Sau đây
tôi xin nói đôi lời về việc đối đáp lần này.
Vế ra
đối của bác Đỗ là: HAY KHEN HÈN CHÊ MIỆNG THẾ XƯA NAY VẪN THẾ. Trong vế đối này
tác giả có sử dụng một câu tục ngữ và một từ đồng âm khác nghĩa: (từ thế, trong miệng thế
và từ thế trong vẫn thế).
Muốn
đối cho chỉnh, người đối cũng phải sử dụng hai yếu tố nói trên. Ngoài ra, như
xưa nay vẫn vậy, vế đối đòi hỏi phải đối từ và đối thanh. Thông thường đối từ
là đối từ loại ( danh từ với danh từ; động từ với động từ; hư từ với hư từ…). Tuy nhiên cũng
có khi không tìm được từ loại thật chuẩn thì có thể dùng tính từ đối với động
từ cũng chấp nhận được. Còn đối thanh nghĩa là thanh bằng đối với thanh trắc là
tốt nhất. Nếu không được như thế thì có thể dùng cùng thanh nhưng độ trầm bổng
của nó phải khác nhau. Ví như dùng thanh bằng đối với thanh bằng nhưng nếu từ
trong vế ra không dấu thì từ đối lại phải mang dấu huyền (trong ngôn ngữ học
gọi là phù bình thăng với phù bình trầm). Nếu cùng là thanh trắc thì từ của vế
ra mang dấu sắc thì từ của vế đối phải mang dấu nặng.Tuy vậy những cách đối gượng như vậy người ta không sử dụng trong các từ kết thúc của vế đối mà ở các từ kết thúc này bắt buộc phải đối chỉnh (bằng với trắc,danh từ với danh từ, động từ với động từ...)
Với
quan niệm như thế, tôi xin đối lại vế ra của bác Đỗ như sau:
Vế ra: Hay
khen, hèn chê, miệng thế xưa nay vẫn thế
Vế đối: Tốt
bày, xấu đậy, nhân gian muôn thuở còn gian
28-10-2014
Song Thu