45 KHÚC ĐÀN BẦU CỦA KẺ VÔ DANH”
Đàn
bầu là thứ nhạc cụ độc đáo nhất của người Việt
mà âm thanh trầm bổng của nó có thể vọng vang, thẩm
thấu và lay thức cõi người. Trần Nhuận Minh đã dùng
chính tiếng đàn bầu của mình chứ không phải của một
kẻ vô danh nào khác. Kẻ vô danh đó cũng chính là cái
tôi của Nhà thơ. Một cái tôi đã đẩy đến tận cùng
để trở thành một vĩ nhân. Chính vì lẽ đó mà mỗi
khúc đàn bầu ở đây khi ngân lên là một chân lý, một
tập hợp chân lý, một châm ngôn, một tập hợp châm
ngôn sáng rõ và minh triết. Ở đây ta không còn gặp cái
hư ảo, cái mặc định trong “Bản xô nát hoang dã”.
Vai
trò của cái “tôi” hoặc “ta” trong 45 khúc đàn bầu
của kẻ vô danh được khẳng định có tầm vĩ đại.
Qua trí tưởng tượng vĩ đại của cái tôi đã tạo ra
một thế giới mới. Cái tôi, vẫn là cái tôi ấy đã
đẩy Trần Nhuận Minh tiếp cận với Đấng Âm U và ông
đã tạo ra 45 khúc đàn bầu, đó là thế giới thi ca kỳ
diệu, nó vượt ra ngoài trí tưởng tượng của những kẻ
trần tục như chúng ta. Những vần thơ như thế chỉ có
thể được sáng tạo ra từ trong cõi chết. Tất cả sự
phi lý ở đây lại bắt cõi người này công nhận nó và
cũng giúp cho mỗi người tiếp nhận được chân lý. Điều
kỳ diệu nhất của thế giới thi ca của Trần Nhuận
Minh chính ở chỗ đó. Chính cái tôi đã tạo ra sự bất
diệt cho thi ca. Vì thế mới có những câu thơ mềm mượt
như nhung nhưng lại cứng hơn sắt thép, sắc hơn gươm
đao. Ta cứ đi dọc theo và lặng nghe âm hưởng 45 khúc
đàn bầu ta sẽ sững sờ trước những gì mà Trần Nhuận
Minh đã khám phá và thu hái được từ Đấng Âm U.
KHÚC
1 – 5:
Đây
là cuộc vật lộn, tìm kiếm, chứng minh cái “ta”,
những giả thiết nghi ngờ, những chứng minh khẳng định.
Cái “ta” của một thời đã làm điêu đứng nền văn
chương, đều hủy diệt biết bao tài năng, đã làm cho
đất nước điêu đứng. Cái lá chắn của cái ta, chủ
nghĩa tập thể. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách.
Không ai phải chịu trách nhiệm cho sự lầm than, đói khổ
của nhân dân ngoài tập thể. Tập thể là gì? Là số
đông, số đông càng lớn thì cái khổ của số đông
khác càng lớn. Những khúc đàn sau Trần Nhuận Minh dần
dần đề cập đến những gì là giả thiết trong năm
khúc này. Cuối cùng Trần Nhuận Minh đã phải mượn câu
thơ của cụ Nguyễn Đình Chiểu để chứng minh cái ta
không tồn tại hoặc cái ta chỉ là vô danh “Ta vô
danh trong ba ngàn thế giới vô danh”.
KHÚC
6 - 7:
Cái
tôi, cái cá nhân đã được khẳng định. Sự giải phóng
cái tôi là một cuộc cách mạng vĩ đại diễn ra rất
quyết liệt trong mặt trận văn học nghệ thuật. Một
thời trong văn chương chỉ được phép nói đến cái ta,
cái tập thể, phải biết tô hồng xã hội (cũng tốt
thôi) nhưng lại quá cực đoan. Vai trò của cái tôi đã
hoàn toàn bị hủy diệt. Tất cả bị đánh tơi tả và
không những thế bao kẻ mất việc phải về đập đá
mưu sinh và cũng bao kẻ phải ngồi tù. Cuộc tìm kiếm và
đấu tranh cho cái tôi diễn ra lâu dài và quyết liệt
trong mặt trận văn học nghệ thuật. Trần Nhuận Minh
viết:
"Cuộc
cách mạng đã bắt đầu hay còn sắp sửa
Cơn
bão lớn nổi lên từ nghiên mực..."
Và:
“Từ trong sâu thẳm Cái Tôi
Bay
lên tất cả
Cái
Tôi sáng tạo ra Thế giới
Và
chuyển rung trong mọi tế bào Ta...”.
Lịch
sử của nhân loại đã khẳng định hai câu thơ dưới
đây của Trần Nhuận Minh là chân lý tuyệt đối:
"Có
người đẩy cái Tôi đến tận cùng thì thành bậc Chân
tài
Có
kẻ đẩy cái Tôi đến tận cùng thì thành tên đại ác".
Thực
tế đã chứng minh rằng khi cái ta (HTX) bị thất bại và
cái tôi của người nông dân - thợ cày lên ngôi thì:
“Bát
cơm đầy hơn khi ruộng chia bé lại
Nụ
cười tươi trên gương mặt thợ cày”
Diện
tích đất nước ta vẫn vậy và diện tích đất đai canh
tác thì vẫn vậy. Một thời cái tập thể đã tàn phá
tan hoang “Đất không nuôi nổi người. Người không
nuôi nổi đất” (thơ Chế Lan Viên) và “Sắn
khoai quắt cả người” (thơ Nguyễn Phúc Nghị). Còn
bây giờ vẫn đất đai và con người ấy khi cơ chế đã
được giải phóng thì nước ta lại xuất khẩu gạo vào
nhất nhì thế giới. /
KHÚC
8:
Khát
vọng của Trần Nhuận Minh rồi sẽ đến ngày bao điều
tốt đẹp cũng sẽ đến và:
“Kẻ
phản trắc lập tức bị lưu đày
Ở
chỗ chính y đang hằng sống”
Lưu
đày ở nơi rừng thiêng nước độc, xa xôi hẻo lánh
chẳng còn ai biết đến y nữa thì có thể y lại thanh
thản. Còn lưu đày ở chính nơi y hằng sống thì sự lưu
đày ấy mới thực sự là lưu đày. Cả cuộc đời của
y sẽ sống trong hổ thẹn đắng cay trước sự chứng
kiến của những người mà y đã phản trắc. Và:
“Tên
ngậm máu phun người
Mặt
hắn tự nhiên đầy máu tanh hôi
Của
chính hắn”
Muốn
hại người, làm bẩn người thì chính hắn phải chịu
lấy cái nhuốc nhơ bẩn thỉu. Rồi Trần Nhuận Minh lại
hy vọng:
“Và
người trồng Cây Phúc
Thì
Quả Phúc đầy vườn
Nếu
vô tình xéo vào lưng con rắn độc
Thì
con rắn độc biến thành sợi dây”
Đó
là một thế giới tự do, công bằng và văn minh sẽ được
tạo dựng.
Những
chương sau này tác giả vẫn duy trì chữ “ta”. Nhưng ta
ở đây là hoàn toàn hoán đổi. Ta là những người cùng
chí hướng, cùng tâm huyết với nhà thơ chứ không phải
là cái ta có ý nghĩa tập thể của nhiều người. Âu đó
là sự khiêm tốn của nhà thơ.
KHÚC
9:
Một
khúc đàn bầu nhiều âm hưởng dạt dào, nhiều mê say
đắm đuối. Trần Nhuận Minh không muốn chúng ta phải
rượt đuổi những ý tưởng cao siêu và cũng vừa mộng
mị. Cũng có lúc nặng nề. Tác giả đã gảy lên một
khúc đàn thơ làm cho lòng ta dịu lại. Ta lại nghĩ về
“Em” và về những khát vọng mộng mơ:
“Suốt
đời Em khao khát
Những
gió trăng muôn thuở chẳng bến bờ
Và
vĩnh viễn
Nợ
nần khói sương...”
“Và
giải khăn mềm vắt vai
Là
một mảnh ánh trăng vàng
Bay
trong cánh rừng thưa...”
KHÚC
10:
Một
sự bừng thức đang day dứt đang trăn trở, ở đây Trần
Nhuận Minh đã có những câu thơ như MUỐI, chảy xót xa
trong máu ta, những câu thơ như TRỐNG, đánh liên hồi
trong tim ta, những câu thơ như LỬA, cháy không nguôi trong
xương ta:
“Bạn
thấy chăng
Hàng
triệu triệu Người
Lần
lượt lao vào lửa đạn
Cho
Tổ Quốc
Sáng
bừng tên tuổi
Rồi
để lại những nấm mồ vô danh
Trắng
đến tận chân trời...”
KHÚC
11:
Vẫn
là những câu hỏi xoáy vào tim óc cõi người:
“Thiện
và Ác
Cái
nào là bất diệt ?
Một
đời sông
Chỉ
có chảy thôi ư ?”
KHÚC
12:
Đừng
quá yêu tin (?). Sự yêu tin quá độ sẽ mang đến sự mất
mát lớn lao:
“Khi
yêu tin
Ta
thường không cảnh giác”
Lịch
sử đã chứng minh điều đó và truyền thuyết đã chứng
minh điều đó:
“Vẫn
còn đây
Cổ
Loa thành
Vạn
thuở
Trắng
trời lông ngỗng bay...”
KHÚC
13:
Khát
vọng chỉ có thể nảy sinh trong cõi chết. Ở đó không
có ai cám dỗ, không có ai kìm hãm, chỉ có một Đấng Âm
U dẫn dắt cho khát vọng cháy bùng.
KHÚC
16:
Châm
ngôn không thể là thơ. Còn thơ của Trần Nhuận Minh ở
đây đã trở thành châm ngôn. Đơn giản vậy mà ngàn đời
vẫn không thể nhận biết để thoát ra. Những cặp đùi
của người đẹp có thể giết chết những anh hùng hảo
hán hơn cả gươm đao.
KHÚC
17:
Ta
gặp lại triết gia vĩ đại của nhân loại : Khổng Tử.
Rõ ràng những câu thơ ở đây đã như muối, như trống,
như lửa. Những triết lý về sự thịnh suy, tất cả
những ngai vàng, những lầu son gác tía, những vị tướng
lừng danh đều được xây dựng từ máu xương của nhân
loại. Đưa ra những liệt kê thật đau đớn. Và rồi để
kết lại Trần Nhuận Minh đã cầu xin (Mặc dù thời gian
này không còn vua chúa nữa).
“Ta
thắp nén hương Đời
Lạy
tạ
Xin
Sông Núi sinh thành
Những
Nhà Vua có Đức
Để
mọi gia đình đời đời Sum họp
Và
sa trường
Mọc
đầy Bông lúa vàng”
Tưởng
như khát vọng đó là đơn giản nhưng ngàn đời nay vẫn
thế, vẫn cứ sản sinh ra những ông vua ngu tối đẩy dân
đen vào sông máu, núi xương.
KHÚC
18:
Những
giả định và mặc định mang tính hư ảo. Có thể tác
giả đã nhận thức được, còn chúng ta, chúng ta chưa
nhận thức được. Liệu lời khẳng định này có được
số đông đồng thuận.
“Tình
yêu ở ngoài hôn nhân
Tình
yêu mới vững bền”
Triết
lý này có thể xáo trộn những nhận thức cổ điển
chăng ? Tôi vừa nghi ngờ và cũng vừa tin vào triết lý
này của Trần Nhuận Minh. Một khía cạnh nào đó nó đã
thành chân lý. Tình yêu của mối tình đầu tuy dang dở
nhưng bao giờ nó cũng vững bền “Có những điều đốt
mãi chẳng thành tro” (Thơ Lê Quang Trang).
KHÚC
20:
Đấng
Âm U mà Trần Nhuận Minh tạo ra để đối thoại, để
gửi gắm để cứu vớt tâm hồn nhưng hóa ra cũng chỉ
là tầm thường giả dối và bất công.
KHÚC
21:
Như
trên tôi đã nói trước khi nhảy xuống sông Mịch La trẫm
mình, Khuất Nguyên đã gặp được người đánh cá, ông
ngửa mặt lên trời mà than rằng: “Tất cả thiên hạ
đều say, chỉ mình ta tỉnh. Tất cả thiên hạ đều đục,
chỉ mình ta trong” và ông đã:
“Chọn
chỗ nước trong để trẫm mình
Tiếc
thay!
Con
cá lớn nuốt ông
Trong
bụng cá
thức
ăn đang thối rữa”.
Thì
ra người thông minh chính trực ở đâu và thời nào cũng
bị bủa vây và hãm hại.
KHÚC
23:
Mọi
biến thiên của vũ trụ lại nằm trong cái lặng im. Hai
câu kết thật tài hoa. Sao đến tận bây giờ vẫn tài
hoa Trần Nhuận Minh và hóm hỉnh khi viết về em. Sự thấu
hiểu của em lại bắt nguồn từ cái im lặng của ta.
“Ta
đến nhà Em
Lặng
ngắm kèo, ngắm cột
Em
biết là ta đã mê đắm Em rồi”
Vâng
! Lại là những câu thơ “Thổi nao lòng từ tuổi chớm
hoa bay” mãi mãi đi vào lòng người, và ở luôn trong
đó cho đến trọn đời.
KHÚC
24:
Một
chân lý tuyệt đối chăng ? Có lẽ ! Và không có lẽ. Hay
phải nhờ đến Đấng Mê Tơi “như thế là như thế”.
Ta không thể giải thích những điều tưởng như chân lý
mà Trần Nhuận Minh đã đưa ra:
“Cả
đời không bình yên
-
Phút gặp người tình cũ
Chao
ôi ! Tình yêu như ngọn gió
Bay
qua
Đầu
mũi kim”
Ngọn
gió bay qua đầu mũi kim ngọn gió sẽ bị cào cứa rách
nát và ngọn gió sẽ đau mãi không thôi. Tình yêu trong
đời của chúng ta cũng vậy. Nó chỉ tồn tại trong khát
vọng và trong nỗi đau như Nguyễn Hoa đã từng viết: “Em
là muối ướp nỗi đau tươi mãi”.
KHÚC
25:
Cảnh
dâu bể khôn lường làm cho lòng Nhà thơ xót đau. Cứng
như đá cũng phải đổi thay nữa là cõi người và làng
bản phố phường:
“Buổi
sáng đi
Xóm
cũ vẫn là Làng
Lúc
chiều về
Làng
đã xoay thành Phố
Nhà
đã tắt tiếng ru con muôn thuở
Tục
ngữ ca dao
Chết
trong sách giáo khoa...
Lũ
trẻ ngủ chập chờn
Trong
nhạc rock phát ra loa...”
KHÚC
26:
Cũng
trong một tiếng đàn bầu sao lại có cảnh ngược chiều
nhau:
“San
đất
Xẻ
nhà
Máu
còn không nỡ tiếc
Đếm
hết tóc trên đầu
Không
hết nghĩa tử sinh”
Sao
lại có sự vần xoay này, phải chăng lúc nào sự phản
trắc cũng rình rập quanh ta dù một thời ta đã sống với
nhau bằng tất cả nghĩa tử sinh, sao lúc nào ta cũng phải
cảnh giác:
“Mắt
này ngủ
Thì
mắt kia phải thức
Lúc
gian nguy
Mình
canh chính thân mình”
KHÚC
27:
Lại
trách móc Đấng Âm U mà ông đã sáng tạo ra là không
công bằng chính trực. Biết tin vào ai ? Biết dựa vào ai
:
“Người
hể hả đưa lên Thiên đường
Những
tên xảo trá
Và
vội vàng đẩy xuống Địa ngục
Những
vị anh hùng...
Ta
không hiểu bản thân Ta
Ta
phải tạo ra Người
Rồi
chính Người
Ta
càng không hiểu nổi...”
Những
khúc cuối ta lại cần phải suy ngẫm hơn rất nhiều vì
những gì mà Trần Nhuận Minh muốn gửi gắm vào đó.
Trần Nhuận Minh đã đề cập đến một vấn đề rất
hệ trọng của thực trạng xã hội. Ở đây Đấng Âm U
đã phán rằng :
“Thà
bất công còn hơn là hỗn loạn
Người
nói thế và mỉm cười
Nụ
cười vô tư lự
Của
Thiên thần
Và
của Trẻ sơ sinh”
Trước
nỗi bất công của cõi người mà Đấng Âm U vẫn cười
thì thật là đau xót.
Trần
Nhuận Minh muốn gửi một thông điệp từ nơi cao xanh
kia Đấng Âm U cũng đã thấu hiểu thể chế của đất
nước này. Hóa ra Đấng Âm U cũng chỉ là kẻ xu thời,
bợ đỡ, kẻ cơ hội như các chính trị gia của đất
nước này. Đành chấp nhận sự bất công đổ xuống đầu
nhân dân chứ không chấp nhận sự hỗn loạn.
KHÚC
28:
Phải
biết sống và nhận diện chân giả của cuộc đời. Tất
cả đều biến ảo khôn lường. Trần Nhuận Minh đã cảnh
báo với chúng ta:
“Luôn
lo xa
Họa
vẫn cứ đến gần
Kẻ
hiểm ác thường có khuôn mặt đẹp
Ngọn
lưỡi ngọt như dao thì sợ hơn dao
Trí
khôn bây giờ
Nằm
trong các hầu bao...”
Một
xã hội lấy đồng tiền thay cho trí tuệ !
KHÚC
29:
Âm
thanh của khúc đàn này khủng khiếp và ghê sợ, nặng nề
quá mà người đánh máy cho tôi lại là một cô gái có
trái tim đa cảm yếu mềm. Tôi không muốn em phải nghe
những âm thanh rùng rợn đó, sợ trái tim em phải run rẩy
nhói đau.
KHÚC
30:
Những
đổi thay nào cũng có sự trả giá, cái mới đi lên, cái
cũ úa tàn cả những điều tốt đẹp nhất. Nhưng nỗi
đau vẫn vậy chỉ tăng lên mà không bao giờ mất đi. Cái
mới không hẳn là cái tốt đẹp.
“Tổ
tiên đã chết ở đây
Những
gò đống cỏ xanh
Nay
đã ủi đi rồi
San
sát vũ trường
Sân
gôn
Quán
nhậu”
Và
chỉ:
“Còn
sót lại một cánh cò trắng mong manh
Thấp
thoáng bay
Trong
ráng đỏ hoàng hôn
Không
tìm ra chỗ đậu…”
Tất
cả là cảnh hoang vu cô quạnh đến đau lòng. Cánh cò
không tìm ra chỗ đậu, cánh cò bay mãi. Một cánh cò biểu
trưng cho đồng quê rồi cũng phải bị hủy diệt.
KHÚC
31:
Trong
quan niệm của Trần Nhuận Minh có hai thứ ánh sáng. Ánh
sáng tự nhiên và ánh sáng phi tự nhiên. Nếu cứ trộn
lẫn hai thứ ánh sáng đó vào nhau thì hậu quả:
“Nếu
ta rót đầy tràn
Ánh
sáng vào ánh sáng
Thì
bóng tối sẽ xuất hiện”
Nhưng
ánh sáng tự nhiên dù như thế nào đi chăng nữa vẫn cho
ta nhìn rõ sự thật:
“Ánh
sáng tự nhiên
Không
đầy không vơi
Đủ
để ta nhận ra
Gương
mặt Em yêu và Sự thật”
KHÚC
32:
Sự
bi quan và trống rỗng trong Nhà thơ cũng chính là sự bi
quan trống rỗng của cõi người. Đôi mắt to hơn người
mà không nhìn thấy bản thân ta và không biết học ai để
làm lại bản thân mình. Chỉ có một Trần Nhân Tông dám
bỏ phú quý vinh hoa, cung vàng điện ngọc để đi tìm
chân lý, tìm cách giải thoát cho cõi người:
“Vua
Trần Nhân Tông ba mươi lăm tuổi
Đã
coi ngai vàng như chiếc dép rách
Trút
áo hoàng bào
Vào
rừng hoang
Ngẫm
nghĩ sự đời
Ăn
sung luộc
Ôi
giời ơi !
Ta
chẳng dại học vua
Khi
ở bên ta
Lúc
nào cũng có hoa hậu và rượu thịt”
Nói
vậy thôi Trần Nhuận Minh đâu phải là vua mà chỉ là
một Nhà thơ :
“Em
vẫn vầy vậy thôi
Bụng
khi no khi đói
Tiền
lúc có lúc không
Vợ
chợt mừng chợt dỗi”
Ấy
thế mà không bỏ được đâu, ở đây Trần Nhuận Minh
muốn gửi một thông điệp chẳng ai muốn làm việc
thiện, chẳng ai dám hy sinh bản thân mình để giúp đời,
cứu đời. Nhà thơ đã bắt đầu cho một sự sám hối
chăng ? Nhà thơ sống lương thiện thế sao phải sám hối:
“Ta
nghe gió rét thổi
Qua
từng đốt xương rỗng sống lưng
Và
nghe bóng tối Đấng Âm U
Phủ
cuối đời ta từng nấc một”
KHÚC
33:
Tất
cả mọi sự tồn tại của vạn vật chỉ là tương đối,
đừng bao giờ lấy cái tuyệt đối để so sánh với cái
tương đối. Mọi sự ở đời phải có sự cân bằng và
có sự đối trọng. Cũng như có đàn ông phải có đàn
bà.
“Cõi
đời là bể khổ”
Thì
phải có:
“Thơ
ca là nỗi đau lên tiếng ...”
Muốn
biết núi Hy Mã Lạp cao thì vẫn phải hỏi đám mây. Sợi
tơ nhện mỏng manh chăng ra để bắt con ruồi. Và chỉ
con ruồi mới biết độ bền của sợi tơ nhện. Cái quy
luật vĩnh hằng là như thế:
“Thế
gian vẫn ngổn ngang
Như
khi trời đất mới tạo thành”
Và
mọi cái đều tồn tại ngoài ý muốn của con người và
vạn vật:
“Núi
nghĩ mà xanh cây
Sông
buồn mà bạc sóng...
Và
người cày ruộng
Vẫn
chẳng cần
Những
Vạc Đỉnh uy phong
Của
các triều vua”
KHÚC
34:
Như
tôi đã giả định những tác phẩm này là sự sáng tạo
từ cõi chết. Những cảnh mà Trần Nhuận Minh nhìn thấy
chỉ tồn tại trong cõi chết và ở đâu đó trong cõi Âm
u:
“Ta
đã từng trông thấy
Những
kinh thành huy hoàng, lộng lẫy,
Xinh
đẹp
Tươi
vui
Như
cô dâu trong ngày cưới
Bỗng
nhiên bị sụp đổ”
Và
cũng thật rùng rợn:
“Các
Thiên thần
Nướng
chả những vị vua
Uống
máu những anh hùng
Ăn
thịt ngựa và những người cưỡi ngựa
Quẳng
xương xuống biển khơi
Mà
đảo núi hình thành”
Trần
Nhuận Minh thảng thốt kêu lên:
“Chao
ôi
Cõi
Thiên thần
Cũng
tưng bừng sự ác
Huống
chi cõi Nhân gian...”
Và
rồi Trần Nhuận Minh:
“Ta
đã từng mơ ước
Miếng
ăn của kẻ nghèo
Không
còn ai cướp giật
Lúa
hạnh phúc chín vàng
Gọi
tay người cùng gặt
Con
đường đến với Tự Do
Là
chính Tự Do...”
Và
sẽ có một ngày:
“Ấy
là ngày Cái Thiện lên ngôi
Bạo
lực và cường quyền
Tất
cả
Thành
vô nghĩa...”
Nhưng
đó chỉ là khát vọng của Nhà thơ. Lòng nhân ái của
Nhà thơ ở đây như muốn bao trùm lên cõi người.
KHÚC
35:
Sự
thật giả, tráo trở vẫn đầy rẫy trong cõi người này.
Và Trần Nhuận Minh đã nhắc người và cũng tự nhắc
mình:
“Vị
Anh hùng ơi
Đi
đêm
Nhớ
mang theo Thanh Kiếm
Còn
Ta
Ta
mang theo Câu Thơ ”
Để diệt trừ cái ác. Nhưng Nhà thơ ơi ! Thời buổi này “Chẳng ai đọc sách nghe lời vua ban” nữa để hiểu sức mạnh của thơ còn rắn hơn sắt thép và sắc hơn cả gươm đao. Còn bọn trộm cướp, tham nhũng, hủ hóa thời này chẳng còn sợ ai cả. Chúng liên kết với nhau bằng thứ vật liệu siêu bền đó là tiền, chúng bất chấp đạo lý và luật pháp.
KHÚC
36:
Kẻ
đớn hèn vô tích sự lại là kẻ đang thống trị, đang
chi phối mọi quy luật sinh tồn của cuộc sống. So với
cái cây, con cá, con người thời nay không bằng chúng mà:
“Nhưng
ta biết
Bắt
con cá rán ròn nhắm rượu
Chặt
cái cây xẻ gỗ đóng thành giường
Nằm
vắt tay ngang bụng em yêu”
Rồi
Nhà thơ tự hỏi:
“Ta
là ai ?
Giật
mình khi chợt thức …”
KHÚC
41:
Sức mạnh của nghệ thuật, sức mạnh của thi ca là sức mạnh vĩ đại nhất mặc dù Trần Nhuận Minh cũng không thể lý giải:
“Nghệ
thuật là gì ư ?
Ta
đâu có hiểu
Nhưng
ta biết
Lưỡi
Kiếm ra trận của người anh hùng
Đã
tôi trong lời ru con của Mẹ
Và
Trái
đất quay trong từ trường
của
những Câu Thơ
Mà
còn đến bây giờ”
Một
nhận thức táo bạo của Trần Nhuận Minh.
KHÚC 42:
Tất
cả đang tăm tối và cần một sự đánh thức để xua
tan đêm tối.
“Cần
một tiếng chuông
Đánh
vào lúc nửa đêm”
Để
khỏi có những cảnh này:
“Khi
đi đã vấp ngã
Lúc
về lại lạc đường
Và
kiêu ngạo
Nghĩa
là đang tự sát”
KHÚC
43:
Nhìn
thế giới mà hãi hùng. Trần Nhuận Minh đã sám hối khi
nhận ra thực tại.
Người
con gái trẻ thì “Nỗi yêu anh còn biết giấu vào
đâu”, còn Nhà thơ thì:
“Ta
già rồi
Chẳng
biết giấu vào đâu
Nỗi
ngu dại
Học
từ thời tốt đẹp”
Chính
vì thế mà Nhà thơ cứ phải lang thang trong cõi chết:
“Nén
hương tắt khi mình chưa trọn kiếp
Cầm
chân hương
Đi
đến cuối cuộc đời”
KHÚC
44 + 45:
Xin
Nhà thơ đừng trăn trở nữa. Bốn mươi lăm khúc đàn
bầu mà ông đã soạn ra đã và đang vang vọng vào cõi
người. Họ sẵn sàng đón nhận những gì mà nhà thơ đã
gửi gắm khi còn sống và cả khi ông đã chết. Cứ bình
tâm, lòng nhân ái của ông đã bao trùm lên tất cả cõi
người. Xin nhắc lại một lần nữa, những câu thơ như
Muối của ông đã và sẽ chảy xót xa trong máu cõi người.
Những câu thơ như Trống của ông đã và sẽ đánh liên
hồi trong trái tim cõi người. Những câu thơ như Lửa của
ông đã và sẽ cháy không nguôi trong xương của cõi
người
(Còn nữa)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét