Sau khi chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi lữ đoàn
203 được lệnh rút ra Long Bình củng cố đơn vị. Ngày 21 tháng 7 năm 1975 tôi nhận
quyết định đi học tại Trường sĩ quan Thiết giáp.
Ra đến
trường, sau mấy tháng tham gia lao động xây dựng cơ sở vật chất đến tháng 3 năm
1976 khoá II đào tạo sĩ quan chỉ huy Tăng Thiết giáp của chúng tôi mới chính thức
khai giảng, tôi được biên chế về Lớp IIĐH1, đại đội đào tạo thuộc Tiểu đoàn Hai
của nhà trường. Vốn là một chiến sĩ lái xe tăng có thâm niên hơn 3 năm lại đã
trải qua chiến đấu nên việc học tập của tôi khá thuận lợi, ngoài ra tôi còn
tham gia tích cực vào các hoạt động văn hoá, thể dục thể thao của đơn vị. Với năng
khiếu sẵn có của mình tôi được chọn vào đội tuyển bóng đá và bóng ném của nhà
trường để tham gia các giải đấu của Binh chủng và khu vực.
Trong
Chương trình đào tạo sĩ quan có nội dung tham quan các Viện bảo tàng Lịch sử,
Viện Bảo tàng Quân đội và một số cơ sở sản xuất ở Hà Nội. Đang tuổi trẻ, vừa lớn
lên đi bộ đội ngay nay được về Thủ đô tham quan ai cũng háo hức nhưng tôi và một
vài đồng chí nữa không được đi vì bận tham gia Giải bóng đá của Binh chủng. Sau
ba ngày tham quan về cả đại đội ai cũng phấn khởi, những câu chuyện xung quanh
chuyến tham quan cứ “nổ như ngô rang”, mấy tên không được đi cứ há hốc mồm ngồi
nghe chuyện mà thèm thuồng và ao ước. Bỗng Vương Văn Hiên- một đồng đội cùng từ
203 ra học sĩ quan chỉ vào tôi:
- Này!
Quê (bộ đội xe tăng chúng tôi vẫn hay gọi nhau như thế) là vinh dự nhất đấy nhé!
Tôi cứ
nghĩ hắn nói về việc được tham gia đội bóng của nhà trường nên gắt gỏng:
- Đá bóng
chứ có gì đâu mà vinh với dự!
Hiên trợn
mắt:
- Không
phải! Cả đại đội này chỉ mình quê là có ảnh ở Bảo tàng Quân đội mà lại không
vinh dự à?
Tôi cảnh
giác nghĩ rằng bọn hắn đang cho mình “ăn quả lừa”:
- Nói tào
lao! Mình làm gì mà lại có ảnh ở đấy được.
Đến lúc
này Nguyễn Lưu Du (hiện là Chánh văn phòng Học viện Lục quân) mới gặng tôi:
- Quê có
tham gia chiến đấu giải phóng Đà Nẵng không?
Đúng là
đại đội tôi có tham gia đánh Đà Nẵng ngày 29 tháng 3 năm 1975 nên tôi trả lời
ngay:
- Có chứ!
Cả bọn ồ
lên:
- Thế
thì đúng rồi! Mặc dù chỉ thò có mỗi cái mặt lên thôi nhưng đúng là “quê” rồi.
Vương Văn
Hiên còn nói rõ thêm:
- Lúc đầu
tớ cũng chưa tin lắm nhưng rồi gọi cả bọn lại xem, càng nhìn càng thấy giống. Tớ
cũng biết đại đội ấy có đánh Đà Nẵng nên khẳng định ngay đúng là Nguyệt lớp ta
rồi. Có đúng không các “quê” ?.
Cả bọn đồng
thanh hưởng ứng:
- Đúng
rồi đấy! Hôm nào về đấy mà xem!
Tôi vẫn
“bán tín, bán nghi” nhưng cũng thấy “sương sướng” trong bụng và nghĩ thầm: “thế
nào cũng phải về xem có đúng không”.
Đã định
như thế nhưng rồi mãi đến nghỉ Hè năm 1977 tôi mới về thăm Bảo tàng Quân đội được.
Vừa bước chân vào khu trưng bày hiện vật bảo tàng tôi đã thấy người run lên khi
nhìn thấy chiếc xe tăng 843 sừng sững ngay trước cửa (hồi ấy xe 843 còn để ở
ngoài)- đây chính là xe của đại đội trưởng Bùi Quang Thận và khi lái xe Lữ Văn
Hoả phục viên tháng 6 năm 1975 tôi đã thay Hoả lái xe này cho đến ngày đi học.
Tôi bước nhanh vào khu vực trưng bày về cuộc Tổng tiến công mùa Xuân 1975 và người
tôi lại một lần nữa run lên trước bức ảnh “Xe tăng ta tiến vào giải phóng Đà Nẵng”.
Bức ảnh khá to, mỗi chiều phải hơn 1 mét, trên ảnh là 4 chiếc xe tăng xếp thành
hàng dọc đang hùng dũng tiến giữa phố phường Đà Nẵng, trong đó xe tôi là xe đi đầu.
Tôi khẳng định điều đó vì nhìn rõ trưởng xe Nguyễn Đình Luông đứng hẳn lên trên
cửa trưởng xe và khuôn mặt anh thì không lẫn vào đâu được. Các bạn tôi đã nói đúng:
mặc dù ngồi ở ghế lái xe chỉ thò chưa hết khuôn mặt lên nhưng tấm ảnh được chụp
rất nét và vẫn có thể nhận ra đó là gương mặt của tôi. Tôi chợt nhớ ra tất cả.
Tôi vốn là chiến sĩ lái xe tăng
thuộc đại đội 4, lữ đoàn xe tăng 203. Xe tôi mang số hiệu 380 gồm bốn thành viên:
trưởng xe Nguyễn Đình Luông người Thanh Hoá, pháo thủ Trương Đức Thọ người Thái
Bình, pháo hai Vũ Xuân Trực người Vĩnh Phú và tôi Nguyễn Khắc Nguyệt lái xe. Ngày
18 tháng 3 năm 1975 từ vị trí trú quân ở Bắc sân bay A- Lưới (Tây Huế) đại đội
tôi nhận lệnh đi chiến đấu. Sau hơn hai ngày hành quân chúng tôi đã có mặt tại Động
Truồi và phối thuộc cho bộ binh đánh chiếm cứ điểm Núi Bông. Ngày 25 tháng 3 chúng
tôi tiến công đánh chiếm Huế và truy kích địch ra cửa Thuận An, sau đó được lệnh chốt giữ tại đó.
Một giờ
sáng ngày 29 tháng 3 chúng tôi được lệnh cấp tốc lên đường đi đánh Đà Nẵng.
Ngay lập tức đại đội tôi xuất phát và cơ động với tốc độ cao theo Quốc lộ 1. Tầm
9 giờ sáng chúng tôi đã đến Lăng Cô, phía trước đã nhìn thấy đèo Hải Vân sừng sững
và ai cũng nghĩ rằng chẳng mấy chốc mình sẽ có mặt tại Đà Nẵng để giải phóng thành
phố lớn nhất miền Trung này.
Đọc rất thích, bởi sự kể tả rất CHÂN THỰC & SỐNG ĐỘNG !
Trả lờiXóa