Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sưu tầm giới thiệu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Sưu tầm giới thiệu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 25 tháng 12, 2019

Hạ bút ?



笔落惊风雨,
诗成泣鬼神。
(杜甫)

Bút lạc kinh phong vũ,
Thi thành khấp quỷ thần.
(Đỗ Phủ)
(Hạ bút mưa gió phải kinh động,
Thơ làm xong thì quỷ thần cũng phải khóc)

Đỗ Đình Tâm
(sưu tầm)

Thứ Hai, 25 tháng 9, 2017

Dải Yếm



Về già bỗng lẩn thẩn nhớ hồi xưa bé bám theo bà đi ăn cỗ. Bà tôi đi trước tôi chạy theo sau. Mỗi khi tiếng súc soách của cái dây sà tích của bà nhỏ dần là tôi phải chạy. Chạy đến bám váy bà. Tiếng súc soách rộn rã. Lại chơi lại bắt chuồn chuồn ngó đông ngó tây. tiếng súc soách xa dần …

Nhớn tí nữa ngồi xem bà nội mài nâu nhuộm vải làm yếm. Thời ấy có vải vuông. Vuông vải như là những miếng vải nhỏ làm đơn chiếc, không như vải súc sau này. Hỏi bà, sao bà làm nhiều miếng thế? Bà cười, nhiều yếm thì nhuộm nhiều.
Ông bà nội tôi là người có của. Cái đận cải cách suýt nữa bị qui thành phần. Ông tôi cổ cày vai bừa sơn tràng vác vã giỏi đến đâu thì tổ tôm cũng giỏi đến đấy. Bà nội tôi một bước ra đường là áo tứ thân là thắt dây sà tích và cái bao của bà đến là dài. Bà vòng hai vòng rồi mới buông cái bao thõng sang bên phải. Cũng có hôm bà buông thõng bao về đằng trước. Có hôm bà mặc yếm nâu non, cũng có hôm bà mặc yếm nâu già và đặc biệt lắm bà cũng mặc yếm mầu trắng ngà ngà.
Bà tôi mất năm 1964. Sau ngày bà mất ít hôm máy bay Mĩ mới mang bom thả xuống Hồng Quảng. Từ ấy tôi không hề thấy trong họ hàng nhà tôi ai mặc yếm nữa. Sự tân tiến lan dần dần đến làng quê mang tên cooc xê.
Nhớn lên đi học, rôi đi ra ngoài với đời. Vẻ tân thời của đàn bà luôn làm tôi để ý nghĩ ngợi bần thần ( bố khỉ!). Ngày còn học cấp 3 ở Thị xã Yên Bái thấy bạn gái cùng lớp thì thầm rồi com cóp tiền mua cooc xê thấy buồn cười. Nhớn tí nữa đi đại học nhìn bọn con gái thành phố hiên ngang mặc áo vải pha ni lon mỏng đáo để khoe cái cooc là nể gớm nể ghê. Nhưng những lúc ấy tôi luôn nhớ ngày bé và nhớ cái yếm của bà. Nhưng sự canh cánh trong lòng nghĩ về cái yếm thì đến luống tuổi mới tự mình lí giải với mình về cái chuyện con con buồn cười ấy. Sự con con ấy chính là cái ‘ dải yếm”
Ngày xưa đi theo bà đi làm cỏ lạc. Nắng nóng quá bà cởi áo ngoài chỉ còn cái yếm nâu dải yếm nâu buộc sau lưng trễ xuống. Bà thắt lại cho khít lên cao. Bà bảo, lúc còn con gái cái dải yếm thắt vào chỗ ong. Thì ra , Lưng ong con gái nhờ cái dải yếm mà nó có điểm nhấn, cái dải buông dọc sống lưng chỗ gẫy võng của người con gái nó gây hiệu ứng dã man. Nhờ cái dải yếm mà cái lưng con gái võng hẳn xuống. Hai sợi dây một ngắn một dài nằm dọc võng lõm trắng ngần. Người ta nhìn cái dây vải có hồn có tiếng chứ không phải thịt da người con gái lên tiếng.
Bây giờ tôi hay nghĩ đến câu người xưa nói “ Khâu trầu dải yếm”. ÔI giời đất ạ, miếng trầu dấu trong cái yếm để mà trao nhau lúc gặp gỡ nhập nhoạng tối thì làm sao mà không say chếnh say choáng cơ chứ. Ngày xưa các cụ ta giỏi. Quá giỏi. Các cụ “phê” nhau đến thế. Có lẽ trong tất cả các miếng trầu mời nhau không có miếng trầu nào linh thiêng như miếng trầu dải yếm. Lại nghĩ ngợị chả thấy các cụ nhà mình nói về cái mặt yếm bao giờ? Nơi mà từ xưa đến nay lớp vải mỏng bao phủ mơ hồ nhưng lại khoe lồ lộ cặp nhũ hoa của người đàn bà. Chính ra ở cái mặt yếm mới thật là sex xy. Nhưng nó không lên tiếng như cái dải yếm. Nó mời gọi không nhời nhưng lộ liếu. Càng về sau người ta càng thấy sức hút tinh thần của cái yếm Việt nam. NGười Việt ta khéo đến nỗi chỉ nói đến cái dải yếm thôi. Mà ngẫm ra các cụ chả phải lảng tránh điều gì. Chính cái buông lõng thõng của dải rút quần hay dải yếm mới gợi cảm rấm rứt con người.

Kiếp sau đừng hóa ra người
Hóa ra dải yếm buộc người tình nhân

Tôi thì chả dám mãnh liệt như các cụ đã nói trên. Nhưng quả thật đến bây giờ nhìn con gái mặc quần buộc dải rút áo ngắn hở rốn nhìn cái dải rút hay hơn chứ chả ai thèm nhìn vào rốn đeo cả khuyên bạc vàng nhóng nhánh. Thế mới ngẫm ra cái dải yếm nó buộc hồn con người là phải.
Ca dao xưa kể:

Thuyền anh ngược thác lên đây
Mượn đôi dải yếm làm dây kéo thuyền.
Ở gần mà chẳng sang chơi
Để em ngắt ngọn mồng tơi bắc cầu.
Mồng tơi chẳng bắc được đâu
Em cởi dải yếm bắc cầu anh sang

Cái cây cầu dải yếm thì đàn ông ai mà chả biết, nhưng niềm mong muốn đến nỗi muốn người đàn bà cởi dải yếm bắc cầu cho anh sang thì …thú thật các cụ ngày xưa về mặt tình ái quá giỏi .
Tôi chợt nghĩ có người đã lí giải thật tuyệt vời về cái khe ngực đàn bà. Với cái khe ngực đàn bà thì sự xâu xa của bản năng sinh học sinh tồn về cái đẹp con người biểu hiện lên thành hình ảnh rồi chuyển thành hành động nuốt nước bọt đánh ực.
Còn dải yếm thì lại không thế, nó làm cho con người bần thần miên man và nuốt nước bọt... cũng rất từ từ
.
26/7/2017
Nguyễn Trọng Luân
( Song Thu sưu tầm)

Thứ Sáu, 9 tháng 6, 2017

PHƯỢNG HOÀNG UY LINH


Phượng Hoàng là tên một dãy núi ở tổng Kiệt Đặc (nay là phường Văn An), TX Chí Linh. Núi có 72 ngọn, chập trùng thông xanh. Chắc là nơi linh thiêng nên trong Chí Linh bát cổ thì ở đây đã hội tụ đến "tam cổ": Tiều Ẩn cổ bích, Tinh Phi cổ tháp và Huyền Thiên cổ tự.
Trải qua mưa gió dãi dầu mấy thế kỷ, các di tích trên đều đã trở thành phế tích. Với sự đóng góp của cả Nhà nước và nhân dân, cho đến nay Tiều Ẩn cổ bích đã được phục dựng thành Đền thờ thày Chu Văn An hoành tráng. Còn Tinh phi cổ tháp cũng đã có Đền thờ Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ mọc lên. Chỉ còn Huyền Thiên cổ tự vẫn trầm tư cùng đổ nát. Mới đây, chùa Huyền Thiên đã có chủ trì mới. Hy vọng tới đây, ở đây một ngôi chùa mới sẽ mọc lên xứng đáng với cái tên của nó.

Đền thờ Chu Văn An:
Đền thờ Chu Văn An cũ




Để cho phù hợp với nước ta, nhiều tiến sỹ giỏi nhất thế giới, nhiều phát minh sáng chế nhất thế giới... nên xây lại một quần thể đền thờ Thầy Chu Văn An mới cho chấn hưng sự Học



Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo






Tục xin chữ ở Đền Thầy- một nét đẹp nơi đây:

  1. ,

     

    Đền thờ nữ tiến sĩ đầu tiên của làng khoa bảng VN: bà Nguyễn Thị Duệ
  2. Kết quả hình ảnh cho đền thờ nguyễn thị duệ
  3. Tinh Phi cổ tháp
  4. Kết quả hình ảnh cho đền thờ nguyễn thị duệ

  5. Huyền Thiên cổ tự đã có chủ trì mới
  6. 18622236 742877409250480 6084578209787657343 n

Thứ Hai, 19 tháng 12, 2016

Điểm diện nhà văn nhà thơ 66: Thâm Tâm


66. Thâm Tâm
      (1917-1950)

"Người đi ờ nhỉ người đi thật"
Đi thật nhưng rồi lại trở về
Nhẹ như hạt bụi như hơi rượu
Mà đắm hồn người trong tái tê.
                       Xuân Sách
Thứ Bảy, ngày 24 tháng 8 năm 2013
Ghi thêm về Thâm Tâm và T.T.KH - Mã Giang Lân 
40 năm nay, nhà thơ Thâm Tâm đã là "người trong cõi nhớ". Bạn bè đồng nghiệp của ông như Vũ Cao, Từ Bích Hoàng, Trần Độ, Tô Hoài... đã nhớ và kể lại cuộc đời hoạt động và sáng tác văn thơ của ông với một tình cảm chân thành trân trọng.
Thế nhưng nói đến Thâm Tâm, nhiều người nghĩ ngay đến T.T.Kh. T.T.Kh. là ai? Là người yêu của Thâm Tâm? T.T.Kh. chính là Thâm Tâm? Giữa T.T.Kh. và Thâm Tâm vào những năm 1937-1940 với những bài thơ tình tuyệt vời đã làm cho tên tuổi nhà thơ và nữ sĩ ấy vang vọng mãi trên thi đàn.

Những năm sau này, những đợt sóng, những luồng dư luận khác nhau về nghi vấn văn chương này vẫn dội lên. Một trong những chứng nhân quan trọng để làm rõ vấn đề là Thâm Tâm thì nhà thơ đã hy sinh trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1950... Ở Sài Gòn trước đây, nhất là năm 1970 người ta không ngớt tung ra những huyền thoại về Thâm Tâm và T.T.Kh. Vũ Bằng là người giỏi bịa chuyện đã làm rùm beng một dạo để tỏ mình là người từng trải, là người hiểu biết. Và trong những dịp ấy nhiều người cũng nhảy ra "ăn theo, bởi vì họ chỉ biết qua nghe, rồi nhặt nhạnh, thêm bớt, viết thành bài làm sang. Báo chí Sài Gòn lúc đó còn công bố thêm nhiều bài thơ giả cũng ký tên là T.T.Kh.

Hai năm nay, khi tập thơ Thâm Tâm ra đời, sự mến mộ của người đọc đối với nhà thơ được khẳng định thêm. Và lại xuất hiện trên báo chí những bài thơ viết say sưa đến quá nhiệt tình. Anh Hoàng Tiến viết liền hai bài. Một bài thơ đăng trên Nhân dân chủ nhật (số 23 tháng 7-1989) kể về T.T.Kh. Anh còn nói bài thơ Các anh in trong tập thơ Thâm Tâm là trích một bài đăng ở Người Hà Nội (2-9-1989) để cung cấp bản đầy đủ Tống biệt hành của Thâm Tâm. Tư liệu anh có là từ nguồn nghe. Hai lần ở hai bài anh đều nói anh "may mắn" được gặp, được nghe cụ Lương Trúc, nhà thơ, bạn Thâm Tâm kể. Anh Hoàng Tiến nói: "Vì trách nhiệm của công việc khảo cứu và biên soạn, cũng như lợi ích của việc làm văn học sử sau này nên anh xin phép nhà thơ Lương Trúc cho công bố toàn bộ bài Tống biệt hành của Thâm Tâm. Đấy là một việc cần thiết và bổ ích (nếu như nghiêm túc, khoa học), chỉ tiếc một điều bằng lối văn lộng ngữ Hoàng Tiến đã đưa ra những nghi ngờ, những điều không có căn cứ. Vậy theo đó mà viết văn học sử, mà khảo cứu thì giấy mực đâu in cho xuể.

Trước khi nói về T.T.Kh, tôi xin có mấy đính chính ở một bài viết ngắn của Hoàng Tiến khi công bố bài Tống biệt hành.

Tập thơ Thâm Tâm do Nhà xuất bản Văn học in năm 1987 sao anh nói là Nhà xuất bản Giáo dục?

Giữa năm 1950 Thâm Tâm đi chiến dịch, làm báo mặt trận và hy sinh ở gần biên giới vì cơn bệnh tai ác, anh chỉ ghi nơi hy sinh: "Ở rừng Việt Bắc".

Đúng là bài Tống biệt hành có một khổ cuối nữa mà Thi nhân Việt Nam cũng như Thơ Thâm Tâm  không đưa vào. Khổ thơ đó như sau:

Mây thu đầu núi, gió lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đổ bóng thầm
Ly khách ven trời nghe muốn khóc
Tiếng đời xô động tiếng hờn căm.

Còn khổ thơ mà anh cung cấp cho bạn đọc là:

Mây thu đầu núi gió lên trăng
Cơn lạnh chiều nao đã đổ thầm
Ngừng ở ven trời nghe tiếng khóc
Tiếng đời xô động tiếng lòng căm.

Tôi thì cho khổ thơ trên chính xác hơn vì đã in trên báo Tiểu thuyết thứ bảy  năm 1940.

Bài Các anh trong tập Thơ Thâm Tâm chỉ có 16 câu (4 khổ) lấy trọn vẹn từ báo Tiểu thuyết thứ bảy ngày 4-5-1940 Hoàng Tiến nghe đâu mà bảo đó chỉ là trích đoạn. Chắc anh tin vào ai đó đã đưa in trên Văn nghệ và nói rằng đây là bài thơ của Thâm Tâm, không có đề, mà ở đây thực ra mở đầu là 8 câu trên và kết thúc là 8 câu sau của bài Các anh, còn ở giữa là 56 câu khác không ăn nhập gì với kết cấu toàn bài. Vẫn bài thơ dài này cộng cả 64 câu, ông Nguyễn Tấn Long trong Việt Nam thi nhân tiền chiến in ở Sài Gòn năm 1968 lại đặt tên là Gửi T.T.Kh. Có lẽ cũng nghe ai nói rồi ghi lại.

Trở lại câu hỏi T.T.Kh. là ai? Tôi xin mách: Thanh Châu chính là người khơi nguồn thiên tình hận này. Năm 1937Tiểu thuyết thứ bảy đăng truyện ngắn Hoa ti-gôn của Thanh Châu kể lại mối tình ngang trái giữa chàng nghệ sĩ và thiếu nữ Mai Hạnh. Họ đã gặp nhau dưới hoa ti-gôn. Nàng sợ bố mẹ khổ tâm, sợ tai tiếng ở đời nên không dám bỏ nhà đi với người yêu - Nàng phải sống gượng ép với một người chồng. Ít ngày sau tòa soạn báo nhận được hai bài thơ Bài thơ thứ nhất và Hai sắc hoa ti-gôn của T.T.Kh. Khi hai bài thơ này được đăng, nhiều người nhận T.T.Kh. là người yêu của mình như Nguyễn Bính, J.Leiba, Thâm Tâm đã làm mấy bài thơ đáp lại tiếng lòng của thiếu nữ, giải bày tâm trạng đau đớn của mình. Trong nhiều bài thơ của Thâm Tâm thường thấy xuất hiện cái màu hoa, dáng hoa ti-gôn "như tim vỡ".

Trong bài T.T.Kh. là ai? Hoàng Tiến viết T.T.Kh. "về sống ở Thanh Hóa đã bốn năm nay, không biết bà còn hay mất", cụ Lương Trúc đã có dịp gặp đôi ba lần? Sự thật theo tôi, 50 năm nay đã rồi, T.T.Kh. đến nay vẫn còn là "ẩn số". Một hồn thơ đầy xúc cảm, một con người cao thượng nói lên nỗi đau đớn của mình một cách tuyệt vời mà lại âm thầm, mai danh ẩn tích, để lại cho đời, cho giới mày râu cầm bút biết bao bàng hoàng thương cảm, mến phục.

Một điều cần chú ý: Trước kia bà Thâm Tâm sống và học ở Thanh Hóa, khi xây dựng gia đình với Thâm Tâm thì ở Hà Nội và những năm kháng chiến chống Pháp lại ở Thanh Hóa mãi đến năm 1950 khi nhà thơ hy sinh, bà mới cùng bé Nguyễn Tuấn Khoa, con trai duy nhất lặn lội ra Việt Bắc, bà Thâm Tâm hiện nay vẫn đang ở Hà Nội.

T.T.Kh. là ai? Là Trần Thị Khánh, là Thâm Tâm - Khánh là Tuấn Trình - Khánh (vì tên thật là Thâm Tâm là Nguyễn Tuấn Trình)... Theo Việt Nam thi nhân tiền chiến (Sài Gòn 1968) có người còn nói T.T.Kh. chính là Trần Thị Khánh, người em gái đồng tông với nhà thơ Tế Hanh ở Thanh Hóa vân vân và vân vân. Tôi có thể nêu lên rất nhiều những huyền thoại huyễn hoặc nữa xung quanh cái tên T.T.Kh. này.

T.T.Kh. là ai? Là một thiếu phụ, nhưng chưa bao giờ xuất đầu lộ diện. Chỉ lộ ra cái tên T.T.Kh. Cái tên Trần Thị Khánh cũng là do suy luận, đoán. Theo tôi mọi cái tên diễn dịch, khẳng định ở trên đều là của giả. Ngay cả hai bài thơ tiếp sau là Đan áo cho chồng và Bài thơ cuối cùng dù được ký tên là T.T.Kh. cũng rất có thể là của giả, bởi vì xét về ý tứ, nghệ thuật thơ cũng có những mâu thuẫn, những điểm đáng ngờ.
Mã Giang Lân
(VĂN NGHỆ số 13 tháng 3-90)

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2016

'Thiên đường' qua lời người chết đi sống lại

15/12/2016  15:11 GMT+7 
 
Một người đàn ông được coi là chết lâm sàng trong hơn 1h, mới đây đã mô tả việc đi tới thiên đường và đoàn tụ với một người bạn đã qua đời, rồi sau đó trở lại trái đất. 
Bác sĩ Gary Wood cho biết, khi 18 tuổi, ông và em gái Sue,16 tuổi gặp một vụ tai nạn xe hơi nghiêm trọng khi trên đường về nhà. Chiếc xe do ông điều khiển đâm phải một ô tô đỗ trái phép. 
Trong khi Sue vô sự thì ông Wood bị những chấn thương nghiêm trọng đe dọa tới tính mạng, gồm cả tổn thương dây thanh quản lẫn gãy xương ở nhiều chỗ. Khi nhân viên y tế có mặt, ông Wood được tuyên bố đã chêt tại hiện trường.
Tuy nhiên, "chàng thanh niên nổi loạn" như chính ông mô tả về mình trên website cá nhân, vẫn nhớ rõ mọi việc xảy ra cách đây 50 năm.
Nói với người dẫn chương trình Sid Roth trên chương trình "Đó là siêu nhiên", ông Wood cho hay, sau khi tai nạn xảy ra, ông rất đau, và sau đó, tôi thấy thoát khỏi mọi đau đớn khi qua đời.
Ông Wood nói, sau đó, ông đã đi lên Thiên đường. "Chết giống như bạn cởi quần áo và đặt chúng ở đó. Tôi bước ra khỏi cơ thể mình, khỏi bộ đồ trái đất, sau đó được nâng lên qua nóc ô tô và toàn bộ cuộc sống đi qua trước mắt tôi trong nháy mắt. Sau đó, tôi thấy mình ở trong một đám mây hình phễu, rồi sau đó, đám mây mở ra, tôi nhìn thấy một cái cổng vàng cực lớn, nơi mà trong kinh thánh gọi là thiên đường".
Bác sĩ Wood mô tả việc chết đi và lên thiên đường giống như một trạng thái cực kỳ sung sướng, yên bình, tĩnh lặng". Ông đã viết vài cuốn sách về trải nghiệm này.
Bác sĩ Wood nói, ông đã gặp một thiên thần. Và rằng, một người bạn đã hướng dẫn ông đi dạo một vòng ở thiên đường. Người bạn này, vốn là bạn thân của ông ở trường trung học nhưng đã qua đời trong một tai nạn máy cắt cỏ.
Khi trở lại trái đất, ông thấy em gái đang la hét gọi mình. "Và sau đó, tôi nhập lại vào cơ thể mình. Họ lại thấy dấu hiệu sự sống và đưa tôi tới bệnh viện".
Hoài Linh

Điểm diện nhà thơ nhà văn 65: Nguyễn Xuân Sanh


65. Nguyễn Xuân Sanh
     
Xưa thơ anh viết không người hiểu
"Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà"
Nay anh chưa viết người đã hiểu
Sắp sáng thì nghe có tiếng gà.
                              Xuân Sách
Tạp chí Sông Hương - Số 164 (tháng 10)
Nguyễn Xuân Sanh với “Buồn xưa”
15:56 | 05/09/2008
ĐỖ LAI THUÝ
Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời                                Nguyễn Xuân Sanh
   Vợ chồng nhà thơ Nguyễn Xuân Sanh
Trong Mắt thơ 1 (Phê bình phong cách thơ mới), tôi gọi Xuân Thu Nhã Tập (1942) là khúc hát Thiên Nga, tiếng kêu cuối cùng của con Phượng Hoàng, để từ đống tro hồi sinh một Thi Điểu mới. Và người bắc nhịp cầu đầu tiên trong thơ mới sang thơ hiện đại không ai khác là Nguyễn Xuân Sanh (sinh 1920), người chưa phải là tài năng nhất trong bộ ba thi sĩ của nhóm. Hai người kia Đoàn Phú Tứ và Phạm Văn Hạnh. Ngoài tập thơ văn xuôi Đất thơm (viết 1940-1945, in 1995), Nguyễn Xuân Sanh thơ chỉ vẻn vẹn có mấy bài: Buồn xưa, Hồn ngàn mùa, Bình tàn thu... Trong đó, Buồn xưa là tiêu biểu:
Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi
Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y
Rượu hát bầu vàng cung ướp hương
Ngón hường say tóc nhạc trầm mi
Lẵng xuân
Bờ giũ trái xuân sa
Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà
Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm
Tỳ bà sương cũ đựng rừng xa
Buồn hưởng vườn người vai suối tươi
Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời
Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu
Duyên vàng da lộng trái du ngươi
Bài thơ đọc một lần, hai lần... Ấn tượng khó hiểu, nhưng quyến rũ. Và hình như càng khó hiểu càng quyến rũ: cái hay và sự khó hiểu xoắn luyện vào nhau không thể tách bóc được? Và nhà phê bình, với số phận vô duyên của mình, cứ làm cái công việc không thể làm ấy.
 Trên cánh đồng thơ Lãng mạn, Buồn xưa như một ngôi đền đồi đơn độc và kì bí. Thơ Nguyễn Bính, Xuân Diệu đứng vững trên hai chân của lôgích và hữu thức. Các con chữ, các hình ảnh đứng cạnh nhau theo sự tương cận. Từ đó dòng cảm xúc, mạch suy nghĩ, sự liên tưởng mang tính liên tục. Thơ các ông dễ hiểu là vậy: Hôm nay trời nhẹ lên cao, Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn (Xuân Diệu), hoặc: Có hai em bé học trò, xem con kiến gió đi đò lá tre (Nguyễn Bính). Qua lời nắm được tứ, qua tứ nắm được ý. Hành ngôn thơ như con thuyền chở đầy ý nghĩa ý tưởng chuồi theo (một hay những) dòng thơ tương ứng với một câu ngữ pháp;
Thuyền khách đi rồi, tôi vẫn cho
Lòng tôi theo lái tới phương mô?
Bâng khuâng trong cõi sầu vô hạn,
Không khóc vì chưng mắt đã khô.
(Thế Lữ)
Sự dễ hiểu trong thơ do Thơ mới đưa lại dần dà hình thành một thói quen xấu trong đọc thơ để tìm tâm sự, tìm ý tưởng mà nhà thơ cài vào: Mỗi câu thơ che một trận tuyến tâm tình (Chế Lan Viên). Nếu bóc mãi những lớp lá ngôn từ của một bánh thơ mà không tìm thấy chiếc nhân tư tưởng đâu cả thì người ta cho đó không phải là thơ, mà là một sự lừa gạt. Họ có hay đâu thơ có thể nằm ở ngay những lớp lá mà họ vừa vứt bỏ, thậm chí nằm ngay trong hành động bóc. Trong thơ, cứu cánh và phương tiện là một sự đi tìm cái đẹp tự nó cho là đẹp
 Thực ra,thói quen đọc thơ hiểu có căn nguyên trong văn học Nho giáo với quan niệm văn dĩ tải đạo và nảy nở một cách thẩm mĩ trong thơ Lãng mạn. Nhằm đáp ứng nhu cầu giãi bày của một cái tôi cá nhân hiện đại đang vừa muốn tự khẳng định lại vừa muốn được cộng đồng chấp nhận. Bởi vậy, nó phấn đấu cho một ngôn ngữ thơ trong sáng, lời và ý trùng khít nhau, câu thơ gần gụi với câu ngữ pháp, các từ nối (song le, bởi vậy, vi chưng, vả chăng...) được sử dụng nhiều để thơ trở nên khúc chiết. Sự văn xuôi hoá thơ này giúp độc giả đọc hiểu liền, khỏi qua một thao tác đọc diễn xuôi...Trong ý thức thẩm mĩ ấy, Buồn xưa ngay khi lọt lòng đã không được thừa nhận. Nó bị la ó là thơ hũ nút. Và thơ Việt Nam sau 1949 vẫn là thơ liền mạch của thơ mới, thậm chí xa hơn nữa, của thơ tuyên truyền, khai sáng thuở Duy Tân, Xuân Thu Nhã Tập, vì thế càng bị coi là một cây nấm độc. Và càng sặc sỡ lại càng độc.
Cú sốc mà Buồn xưa gây ra, đó là sự phá vỡ tính liên tục của dòng cảm xúc và mạch liên tưởng trong thơ. Các con chữ, các hình ảnh đứng kề cận nhau, làm hàng xóm yêu của nhau mà rào dậu thật kín, tức dường như không có một quan hệ nào với nhau, trước tiên là quan hệ cú pháp.
Chính sự đứt đoạn này là nguyên nhân của sự khó hiểu. Ngày nay, 60 năm sau, tôi nghĩ, phần đông độc giả của Buồn xưa vẫn còn đồng ý kiến với Lê Huy Vân khi ông cho rằng: "Người ta có cảm giác tác giả đã viết rất nhiều "chữ một" vào những mảnh giấy, gập lại để lại trong một cái mũ trắng rồi rút ra từng tờ, biến những chữ tìm thấy chữ nọ cạnh chữ kia, đủ bảy chữ lại xuống dòng" (Thanh Nghị, số 21,16-9-1942). Cả bài thơ như một sự ghép chữ, mỗi dòng thơ là bảy con chữ đứng cạnh nhau một cách ngẫu nhiên. Thực ra đọc thơ Đường đôi khi chúng ta cũng có cảm giác như vậy. Mỗi câu thơ gồm những cụm từ tạo thành mà chẳng thấy có sự liên kết nào:
Nguyệt lạc/ ô đề/ sương mãn thiên
Giang phong/ ngư hỏa/ đối sầu miên
(Trương Kế, Phong kiều dạ bạc)
Tuy nhiên sự giảm thiểu đến tối đa chức năng cú pháp ở đây được bù lại bằng sự ngắt nhịp cố định, sự đăng đối trong nội bộ một câu thơ và giữa những câu thơ với nhau, và toàn bộ niêm luật của bài thơ, nên câu thơ vẫn hiểu được. Nhưng ở Buồn xưa thì không có sự bù trừ đó. Ngự trị thi phẩm dường như là một qui luật không có qui luật, là sự bất định hay sự tự do tuyệt đối. Ở đây mặt băng hữu thức bị rạn nứt, lôgích bị phá vỡ. Bài thơ đã bắt đầu có sự tham dự của tiềm thức và vô thức với tư cách là đồng chủ thể sáng tạo
Nói Buồn xưa có sự tham gia của tiềm thức hoặc vô thức là nói đến tính phi lôgích, một đặc tính khác của thơ hiện đại: thơ Siêu thực. Khác với hiện thực nằm ở tầng hữu thức, siêu thực là một thực tại nằm ở cõi vô thức, nên nó thực hơn. Thực tại này thường được biểu hiện ở giấc mơ, ở trạng thái mơ mộng và ở những dòng thơ được sáng tác
theo lối viết tự động (écriture automatique). Cũng như trong giấc mơ, các hình ảnh của bài thơ đứng cạnh nhau một cách tình cờ. Nếu ở thực tại hữu thức ở thơ Lãng mạn, thì các từ như hồnxanh, rượuhát, ngónhường, chiềuđọng...sẽ không bao giờ ở cạnh nhau, bởi giữa chúng có cả một bức tường lôgích. Còn ở thơ siêu thực, ở Buồn xưa, thì bất chấp lôgích chúng cứ ở cạnh nhau: hồn xanh, rượu hát, ngón hường, chiều đọng... Và chính việc làm gần lại những cái không thể gần này đã làm cho hình ảnh trở nên khác lạ, phi lí và bùng nổ những nghĩa mới, bất ngờ với cả người sáng tạo. Trong văn chương cổ điển với Nguyễn Du, chúng ta đã quá quen với những chiều xuân, hồn thơ, rượu nóng, đến Xuân Diệu nửa lãng mạn nửa tượng trưng, chúng ta bỡ ngỡ với chiều lỡ thi, đêm thuỷ tinh, biển pha lê, còn với Nguyễn Xuân Sanh siêu thực thì chúng ta thực sự sốc với chiều đọng, nhạc trầm mỵ, cung ướp hương, lẵng xuân, trái xuân sa, ngực giữa thu, nhịp hải hà, ngón hường...
Đặc biệt, chữ ngàn mây trong câu Ngàn mây tràng giang buồn muôn đời làm chúng ta thoạt đầu thấy rất chướng. Ta tưởng như đấy là một lỗi mo-rát, bởi ý thức ta chỉ quen với ngàn mây, với mây ngàn. Và nếu là ngàn mây thì sẽ là một câu thơ đẹp, một vẻ đẹp quen thuộc của Thuý Vân. Nhưng ta thấy ngàn mây là nói về giai nhân, về con người, đúng cạnh và đối xứng với trường giang là thiên nhiên, ta bỗng hiểu:
Ngàn mây/ trường giang/ buồn muôn đời
(Con người- thiên nhiên: buồn muôn đời)
Mất liên hệ cú pháp, liên hệ ngữ nghĩa, câu thơ của Buồn xưa vỡ ra thành các đơn vị độc lập. Ví như Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi có thể phân rã thành 6 đơn vị
trong đó hầu như mỗi con chữ là một đơn vị: quỳnh hoa (hoa quỳnh)-( buổi) chiều- (ngưng) đọng - (âm) nhạc- (hương) trầm - (mi) mắt. Các con chữ trong tình trạng tháo rời này khiến mỗi từ được hoàn nguyên trở lại làm một hình vị, do đó khả năng kết hợp (hoá trị) với các từ- hình- vị khác là rất lớn (giá trị). Mỗi từ không chỉ có thể kết hợp với từ liền kề (kề trước hoặc kề sau) với nó, mà còn có thể với cả những từ cách quãng no. Và trong mỗi một đường dây liên kết này lại tạo ra một nghĩa mới cho câu thơ. Từ đó, một câu thơ có khả năng phát nhiều nghĩa:
- Hoa quỳnh, buổi chiều, đọng nhạc, trầm, mi.
- Nhạc, trầm, mi, như đọng trên hoa quỳnh, buổi chiều.
- Hoa quỳnh, buổi chiều, nhạc êm, trầm hương ngát, mi đắm say.
-...
Sau này, Lê Đạt trong Bóng chữ, Ngó lời, Thơ hai kâu...là người biết lợi dụng ưu thế này của tiếng Việt đơn âm (từ là hình vi) để "chế tác" ra những câu thơ phát nhiều nghĩa, ví dụ:
Thu mở mùa chim mây vỡ tổ
có nhiều đường dây đọc như: mùa chim (mùa có nhiều chim, chim thật), chim mây (ẩn dụ), mùa chim mây (ẩn dụ) nên câu thơ có thể đọc:
- Thu mở/ mùa chim mây/ vỡ tổ
- Thu mở mùa/ chim mây vỡ tổ
- Thu mở mùa chim/ mây vỡ tổ
Như vậy con đường Nguyễn Xuân Sanh khai phá là, từ hữu hạn những con chữ của một bài thơ có thể mở ra vô hạn (ít ra trên bình diện lí thuyết) những đường dây ngữ nghĩa làm tăng các chiều kích của không gian thẩm mĩ.
Đó cũng là con đường nổi loạn của ngôn ngữ thơ. Từ chỗ
là một công cụ chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm (Nguyễn Đình Chiểu), là tiếng hót của con chim đến từ núi lạ (Xuân Diệu), ngôn ngữ thơ đã thoát khỏi thân phận phương tiện để trở thành mục đích. Với Buồn xưa, ngôn ngữ thơ đã đòi được quyền sống độc lập của nó. Bất chấp những ràng buộc của tập tục Cổ điển và Lãng mạn dựa trên nguyên lí logích, nguyên lý loại trừ các con chữ đã dám phá án chung thân để đạt tới sự hôn phối tự do theo nguyên lý bổ sung. Và hậu quả của nó chúng ta có hồn xanh (hoá ra tâm hồn có tuổi trẻ, có màu sắc và sức sống), rượu hát (hoá ra rượu cũng có niềm vui, không chỉ để phá sầu thành), chiều đọng (thời gian ngưng lại thành không gian và thu vào một điểm như rơi vào lỗ đen)...
Toàn bộ sự bí ẩn của Buồn xưa, như vậy nằm ở tính gián đoạntính phi logích trong dòng mạch cảm xúc và liên tưởng thơ. Đó là thủ phạm khiến người Thơ-Mới ngoảnh mặt đi trước đây và là nguyên nhân khiến nhiều độc giả trong vọng tuyến cách tân nghệ thuật hiện nay quay lại. Tuy nhiên xét cho cùng, tính giai đoạn và tính phi logích ấy là hậu quả của cách đọc tuyến tính, đọc theo chiều ngang, chiều thời gian, chiều văn xuôi, chiều tiếp nối của những con chữ. Để khắc phục sự gián đoạn đó và lấp đầy những khoảng cách do sự liên tưởng nhảy cóc bỏ lại, tức thiết lập một tính liên tục khác, tính liên tục ở người đọc, có thể theo một cách đọc khác, cách đọc phi tuyến tính, tức đọc theo chiều dọc bài thơ, chiều không gian, chiều thơ, chiều những con chữ có mặt đồng thời với nhau.
Buồn xưa, với cách đọc phi tuyến tính, là một thiên hồi tưởng, là một giấc mơ trong một giấc mơ: thi nhân nhớ người đẹp, mường tượng giai nhân trong quá khứ. Người ta có thể thấy mạch đi của kí ức qua những từ như gợi
(Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu), chở (Hồn xanh ngát chở dấu xiêm y), rồi mùa xưa, buồn xưa.. Sau đó là chân dung người đẹp ẩn hiện qua những chi tiết siêu thực (tức cực thực) như trong tranh Dali nằm trong một tổng thể trừu tượng như tranh Kandinski: mi mắt (Quỳnh hoa chiều đọng nhạc trầm mi), tóc (Ngón hường say tóc nhạc trầm mi), lông mày (Ngàn trường giang buồn muôn đời), môi (Môi gợi mùa thu ngực giữa thu), vai (Buồn hưởng vườn người vai suối tươi), vú (Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm), rồi da, ngực, hồn, xiêm y...không gian có âm nhạc (Ngón hường xay tóc nhạc trầm mi),rượu ca hát, (Rượu hát bầu vàng cung ướp hương, ngón hường say tóc nhạc trầm mi), hoa quả (Lẵng xuân/ Bờ giũ trái xuân sa/ Đáy đĩa mùa đi nhịp hải hà), trăng (Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm)... Thời gian là mùa thu (Môi gợi mùa xưa ngực giữa thu), đêm trăng (Nhài đàn rót nguyệt vú đôi thơm)...Đây là một bài thơ tình yêu đã đi vào dĩ vãng, thành nỗi buồn xưa nhưng không ngừng ám ảnh thi nhân. Nguyễn Xuân Sanh trong cuộc đời 20 tuổi của mình hẳn chưa thể trải nghiệm tình yêu đó, nhưng ông đã có nó trong rất nhiều tiền kiếp của mình, nên nó thường trở về trong những giấc mơ ông. Đó là nỗi buồn, mà buồn xưa thì bao giờ cũng đẹp như một lí tưởng thẩm mĩ. Và người thơ, trong cõi sống hữu hạn của mình, luôn đuổi bắt những đề tài vĩnh cửu một cách vừa tuyệt vọng vừa tin tưởng.
Buồn xưa tuy chưa hoàn toàn là thơ hiện đại, nhưng cốt cách đã hiện đại. Tính gián đoạn và tính phi lôgich. Bài thơ là hoá thân của con cá biến thành nàng tiên. Nhưng nghiệp cá chưa hết, nên nàng tiên cá này còn giữ lại chiếc đuôi cá thay vì bộ chân người! Đó là việc Nguyễn Xuân Sanh sử dụng lại những thi liệu cũ mặc dù đã được làm
mới một cách đáng kể như quỳnh hoa, xiêm y, tỳ bà, nhịp hải hà... câu thơ vẫn nguyên sự đều đặn: mỗi câu bảy chữ, mỗi khổ bốn câu, một hình thức rất thông dụng của thơ mới. Chính tính lưỡng thê này của Buồn xưa khiến nó, trong mắt đám đông chỉ còn là một thuỷ quái. Tuy nhiên với Nguyễn Xuân Sanh, đây cũng là điều khó tránh. Áp lực của thời đại một phần: Buồn xưa chống lại Thơ
mới trong khi thơ còn đang thịnh; phần khác, do đề tài thi phẩm là Buồn xưa, một cái đẹp ở chân trời dĩ vãng; cuối cùng cơ sở triết mĩ của Xuân Thu Nhã Tập là đạo học phương Đông tôn sùng một Đại Ngã vĩnh cửu trong một nhịp hải hà miên viễn.
Non chục năm sau, bằng một nhịp điệu mới của thơ không vần, bằng những hình ảnh lấy nguyên từ cảm giác đời sống, bằng một ngôn ngữ thuần khiết đời thường, Nguyễn Đình Thi đã làm nốt những điều Nguyễn Xuân Sanh bỏ lại, đưa thơ Việt tiến thêm một bước. Con cá lưỡng thê ngày xưa giờ đã trở thành con chim én trót bỏ lỡ một mùa xuân khiến chúng ta ngày nay vẫn phải ríu rít gọi bầy. Cuộc chạy tiếp sức của thơ Việt vào hiện đại còn chậm chạp và phải qua nhiều chặng, càng làm chúng ta nhớ đến người khởi động chặng đầu: Nguyễn Xuân Sanh với Buồn xưa.

Tháng 7 măm 2002
Đỗ Lai Thúy

Thứ Ba, 24 tháng 5, 2016

Nữ cố vấn gốc Việt đặc biệt trong phái đoàn Tổng thống Obama thăm Việt Nam


Sau hơn 36 năm rời quê hương, bà Elizabeth Phu đã quay trở lại Việt Nam với tư cách một công dân Hoa Kỳ, là cố vấn của Tổng thống Obama và có mặt trong phái đoàn công du của ông tới Việt Nam lần này.

 


Người phụ nữ gốc Việt 39 tuổi này là Giám đốc phụ trách các vấn đề Đông Nam Á và châu Đại dương của Nhà Trắng và là thành viên của Hội đồng An ninh Quốc gia Hoa Kỳ.
Bà Phu đã có 15 năm kinh nghiệm làm việc với hai đời Tổng thống Mỹ là George Bush và Obama cùng các Bộ trưởng Quốc phòng tiền nhiệm và đương nhiệm trong vấn đề ngoại giao và an ninh quốc gia Mỹ.
Với tư cách là cố vấn các vấn đề Đông Nam Á và châu Đại Dương, bà Elizabeth Phu là người lên kế hoạch cho những chính sách đối ngoại với các quốc gia Đông Nam Á và ASEAN, đồng thời bà cũng là người tham vấn cho Tổng thống Obama cách ứng phó với các sự kiện ngoại giao, quân sự, kinh tế trong khu vực.
Đối với Việt Nam, bà Phu là thành viên chủ chốt tham gia các công tác chuẩn bị, dàn xếp các thỏa thuận chính trị, kinh tế, quốc phòng trong các cuộc gặp gỡ giữa lãnh đạo hai nước, cụ thể như chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng hay Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng tới Mỹ thời gian vừa qua và chuyến thăm Việt Nam lần này của ông Obama.
Trước khi tới Việt Nam, bà Phu cũng có nhiều dịp công du tới các quốc gia Đông Nam Á như Myanmar hay Malaysia cùng Tổng thống Obama.
Tại các nước này, bà có dịp thể hiện tiếng nói của mình về những chính sách của nước Mỹ, đặc biệt là chính sách đối với người tị nạn cũng như kể lại câu chuyện của bản thân và quá trình vươn lên khẳng định mình của một người từng là “người lạ” trên đất Mỹ.
Bà Elizabeth Phu từng nói: “Hoa Kỳ là một đất nước chào đón tất cả mọi người cần sự giúp đỡ, những người muốn làm việc chăm chỉ và tìm kiếm một cuộc sống tốt đẹp hơn cho gia đình".
Trong chuyến đi tới Kuala Lumpur vào năm ngoái, bà Phu cùng các nhân viên Nhà Trắng có dịp ngồi dưới hàng ghế khán giả, lắng nghe bài phát biểu của Tổng thống Obama.
Ông Obama đã nhắc lại nguồn gốc Đông Nam Á của mình, ông thậm chí còn nói được tiếng Indonesia và giải thích tại sao việc Hoa Kỳ xoay trục sang châu Á lại quan trọng đến vậy.
Đây cũng chính là nhiệm vụ mà bà Phu là thành viên đóng vai trò chủ chốt.
“Khu vực Đông Nam Á là ngôi nhà của lòng nhân ái, với những nền kinh tế đang phát triển nhanh nhất thế giới. Và đó là trọng tâm trong chính sách đối ngoại của tôi”, ông Obama khẳng định.
Trong những năm làm việc tại Nhà Trắng, bà Phu đã giúp ông Obama hình thành các chính sách ở Đông Nam Á, khu vực được Tổng thống Hoa Kỳ hướng đến để tạo dựng các mối quan hệ đồng minh chiến lược và thương mại.
Phó Cố vấn an ninh quốc gia Hoa Kỳ, ông Benjamin Rhodes, từng khẳng định trong chuyến thăm Malaysia năm ngoái cùng bà Phu: “Chúng tôi không đóng cửa đối với những người cần sự giúp đỡ và chúng tôi cần phải hỗ trợ các nước cũng đang chào đón người tị nạn như Malaysia, Jordan hay Thổ Nhĩ Kỳ.
Đó không chỉ là một thông điệp nhân đạo mà còn là vì lợi ích của các quốc gia.
Những người tị nạn đến từ các nước Đông Nam Á đã thành công tại Mỹ và đóng góp rất nhiều cho nước Mỹ. Đó là những gì chúng tôi được hưởng lợi”.
Và câu chuyện của bà Elizabeth Phu chính là một dẫn chứng hùng hồn nhất mà chính quyền Hoa Kỳ muốn nhắc tới.
Bà tốt nghiệp trường trung học Miramonte ở Oakland và theo học tại ĐH UC Berkeley và UC San Diego.
Trong ba năm trở lại đây, bà Phu đứng trong hàng ngũ các chuyên gia Hội đồng An ninh quốc gia tại Nhà Trắng và trở thành Giám đốc phụ trách các vấn đề Đông Nam Á và châu Đại Dương.
Câu chuyện gia đình của bà Phu vào năm 1978 giờ đây được bà nhắc đến nhẹ
nhàng như một kỷ niệm cũ.
“Dù là một người tị nạn đến từ một quốc gia đang phát triển nhưng tôi vẫn có thể lớn lên thành công trên nước Mỹ và có cơ hội tuyệt vời được làm việc trong Nhà Trắng. Điều này khiến tôi cảm thấy vô cùng tự hào”, bà Phu chia sẻ.

24/05/2016
Đỗ Đình Tuân