Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đỗ Văn Nghị. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đỗ Văn Nghị. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 13 tháng 3, 2018

TÌM LẠI TUỔI THƠ TÔI

                         (Thân tặng các bạn khóa 69-72 yêu dấu của tôi)

     
Tôi tìm về với tuổi thơ tôi
Về với bạn bè cái thời mới lớn
Ngày lũ chúng tôi vào lớp Tám
Tin Bác Hồ vừa mất nhói trong tim
Trời đầu thu, u ám, xóm Đồi Thông
Tôi bỡ ngỡ giữa cô, thầy, bạn mới
Những dãy nhà đơn sơ thuở ấy
Chỉ còn trong ký ức tháng năm xa…

Tôi tìm tôi của những ngày xưa
Mỗi sớm tới trường hai giờ cuốc bộ
Bạn cho nhờ xe, có chi mà xấu hổ
Những ai nào? Tôi còn nợ những cuốc xe?
Tôi tìm lại tôi những giờ học say mê
Những bài toán, bài văn, giờ nhiều bài vẫn thuộc
Tuổi trẻ đắm mình trong ước mơ khao khát
Từ làng quê, ao ước những chân trời

Tôi tìm lại tôi giữa bè bạn một thời
Trong sáng thế và vô tư đến thế
Nếu tên bạn lúc này tôi chưa nhớ
Xin đừng trách bạn ơi, nửa thế kỉ sắp đi qua
Tôi tìm gì khi tóc đã chớm già
Chân đã mỏi, mắt cười không duyên nữa?
Tôi vẫn đi tìm vì trong tim cháy lửa
Bạn bè ơi, “ngày ấy đâu rồi?”
Tôi tìm lại tôi giữa những nụ cười
Giấu đâu đó, những giọt thầm nước mắt
Bạn bè còn đây, nhắc người đã khuất
Tứ, Mùi, Tuân ơi, ai nữa, nhắc đi nào?

Tôi về tìm tôi trong ký ức nôn nao
Xin được một lần ấm vòng tay bè bạn
Rồi mai lại đi giữa cuộc đời hữu hạn
Và mang theo tình nghĩa ấy, đến vô cùng./.

   15/10/2017  
 Đỗ Văn Nghị

                          

Chủ Nhật, 15 tháng 1, 2017

Khói gò xoài


KHÓI
Khói
Dùng dằng
Chấp chới
Nhẩn nha bay
Còn chưa tối
Hóa kiếp về trời
Đi đâu mà vội
Lãng đãng ôm gốc xoài
Quẩn quanh nơi gò mối
Xôn xao xuân đã rất gần
Bỗng chốc bỏ đi thật tội
Lửng lơ bay, nhẹ bỗng lưng trời
Hóa sương sa, hẹn về năm tới
Ngày mai, ngày kia vun gốc cây trồng
Một chút tro tàn, thầm ươm chồi mới...

13/1/2017
Đỗ Văn Nghị
(mời ngắm lại những bức ảnh "Khói gò xoài" vườn nhà thầy Tuân)

Thứ Bảy, 31 tháng 12, 2016

Thư mời gửi xóm Nam

Thư gửi xóm Nam
Chào các cô nương, đầu thư chúc các cô luôn tươi tắn, nhỏ nhắn và may mắn...
Dạo này Thầy hay đưa ra các vế đối, mà lại ngày càng khó nhằn. Nghị nghĩ ngợi ngổn ngang mà chẳng bao giờ hoàn chỉnh lời giải. Chợt nghĩ, thế giới người ta khuyến khích “làm việc theo nhóm”, tại sao chúng ta lại không thử “nối tay” thành một bọn, ai nghĩ được cái gì thì đưa ra thảo luận trước với nhau, bổ sung cho nhau, chỗ thừa bù chỗ thiếu, chỗ đúng chữa chỗ sai. Chúng ta làm việc theo nhóm chứ quyết không phải theo “lợi ích nhóm”. Nếu Thầy thưởng bữa thịt chó, Nghị xơi được thì xơi thay cho nhóm, một phần sẽ “qui ra thóc” theo kiểu “trà đá, trà chanh, trà Dr Thanh” chẳng hạn, rồi đến mùa Quít gặp các cô nương sẽ chiêu đãi mệt nghỉ. Về danh xưng của nhóm cứ đề tên là “Anh Hà Hương Nghị”, biết đâu Xóm Tri Ân lại ngỡ ngàng có anh Nghị nào mới, họ Hà, tên đệm là Hương, chứ không phải cái anh chàng Nghị, con ông lò rèn ở Ngã tư Giang, thấy họ Đỗ sang thì bắt quàng làm họ.
Nói thật, anh thấy sức nghĩ của mình có hạn, cũng muốn liên kết bạn lâu rồi. Có ông bạn Lính Chiến thứ thiệt, rất khỏe, viết khỏe, làm việc khỏe, chữ nghĩa đã có một kho “nho nhỏ”. Có ông bạn nối khố khác, từng sống chết có nhau, giờ suốt ngày dê với rượu cho người ta, cũng không thiếu tâm hồn thi sĩ, từng được đăng thơ trong tập “Hoa đèn”. Nhưng bọn anh chỉ gặp nhau uống rượu là thích thôi chứ “nam châm cùng cực”, làm việc nhóm thì...
Thế cho nên anh mời các cô nương hiệp tác.
Thầy ra vế này:
TẾT TÂY RỒI LẠI TẾT TA, TẾT TẾT TIỆC TÙNG TƠI TẢ
Nghị thử đề xuất mấy ý, các cô nương tham gia cùng hoàn chỉnh nhé.
1/ LÀNG LÁNG CHO ĐẾN LÀNG LỦ, LÀNG LÀNG LỄ LẠT LUNG LINH
2/ NGƯỜI NGAY MẶC THÂY NGƯỜI NGHIỆN, NGƯỜI NGƯỜI NGHĨ NGỢI NGỔN NGANG
3/ THẦY THỢ VỚI CẢ THẦY THƠ, THẦY THẦY THIẾU THỐN THẢM THƯƠNG
Nếu được các cô hay chữ cùng chung sức, ắt hẳn sẽ có thưởng to. Mong lắm, mong lắm.

          Chào thân ái và quyết thắng.

Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2016

MẦU XANH NGÀY XA

Gặp em chiều ngày đông
Phố dài hun hút gió
Rét năm nay muộn thế
Bao giờ mới lập xuân
Đào đã nở tưng bừng
Quất nhà ai héo quả
Hai đứa ngồi quán nhỏ
Áo em mầu thiên thanh
Ôi mầu xanh, mầu xanh
Nhắc anh ngày xa ấy
Em đưa tay vẫy mãi
Áo em lẫn mầu trời
Đi gần hết cuộc đời
Gặp lại ngày buốt giá
Thời gian trôi lặng lẽ
Áo mầu xanh, xanh, xanh...

28/12/2016
Đỗ Văn Nghị

Thứ Năm, 29 tháng 12, 2016

Lại theo hầu Thầy Tuân

         Viết tiếp vào phần nhận xét của bài Thầy khoe được tặng cái nón cũng được nhưng thôi cứ đăng lên đây theo kiểu bài viết mới cho nhiều người bắt buộc phải đọc, hehehe.
Vế xướng của Thầy là:
 

NHÀ THƠ LÀM VƯỜN ĐỘI NÓN BÀI THƠ

Cái khó của câu này ngoài hai chữ THƠ, còn 3 từ liên tiếp tạo thành một danh từ NÓN BÀI THƠ. Lúc đầu, không hiểu hết em viết vế họa lại theo kiểu hàng chợ, hàng nhái:
NHÀ BÁO CHẠY MƯA CHE ĐẦU TỜ BÁO
       Hoặc như sau:
NGHỆ SĨ SẮM ĐỒ VÊNH VANG BỆNH SĨ
        Câu này cũng được Thầy chỉ ra cái sai rồi. Giờ em làm thêm hai vế nữa, cố khắc phục cái đuôi 3 chữ khó nhằn kia, tất nhiên mới chỉ tìm từ mà chưa thật có ý.


NHÀ THƠ LÀM VƯỜN ĐỘI NÓN BÀI THƠ
ÔNG LÃO ĐÁNH GIANH LỢP NHÀ DƯỠNG LÃO
        câu nữa là:


NHÀ THƠ LÀM VƯỜN ĐỘI NÓN BÀI THƠ
MẸ MƯỚP CHẶT TRE DỰNG GIÀN BÍ, MƯỚP
       Thực ra, lúc đầu em định dựng lên một cảnh sinh hoạt vui, nhưng nó cũng mắc lỗi như mấy câu ban đầu. Sai rồi nhưng cứ viết ra cho hết:


NHÀ THƠ LÀM VƯỜN ĐỘI NÓN BÀI THƠ
MẸ MƯỚP NGỒI CHỜ TAY BÊ RỔ MƯỚP.


Đỗ Văn Nghị

Chủ Nhật, 25 tháng 12, 2016

CHÙM THƠ HỌA VỚI THẦY TtUÂN (1)


Bài xướng
RÈN CÂU CHỮ GẮN TÌNH THÂN

Tri Ân chuẩn bị đón tân xuân
Thày cũ trò xưa lại ghép vần
Bầu bạn xa gần chung góp với
Qua rèn câu chữ gắn tình thân.
             Đỗ Đình Tuân


Các Bài họa

1.
RÈN CÂU CHỮ GẮN TÌNH THÂN
(Họa nguyên vận)

Xóm ảo tri ân sắp đón xuân
Thày trò xướng họa có đôi vần
Văn thơ giảng giải điều hơn thiêt
Lễ tiết giao tình đẻ kết thân

Văn Nhã

2.

Tri ân xóm ấy sắp nghênh XUÂN
Trò cũ lăm le họa mấy VẦN
Mong được chầu rìa mâm thịt chó
Thầy cho bữa rượu thắm tình THÂN
                                           24/11/2016
                                               Đỗ văn Nghị

3.

TRI ÂN xứ bắc chẳng vào XUÂN
Chửa thấy miền nam họa một VẦN
Lũ lụt ngơi rồi, chơi phây-búc
Hay là xứ bắc kém tình THÂN?
                                          Đỗ Văn Nghị
4.

Mượn cớ cuộc chơi chọc thử XUÂN
Xuân cho úng ngập hết ba VẦN
Xuôi xuôi, ngược ngược tài cao thế
Cánh Bắc cúi đầu: chịu mấy THÂN!
                        Đỗ Văn Nghị

5. Có ông bạn mới về hưu kể:

Thơ cười tủm tỉm, hết rồi XUÂN?
Gieo mãi mà sao chẳng thấy VẦN?
Hì hục canh khuya như đánh vật
Thơ đâu chẳng thấy, nhọc cả THÂN.
                                           Đỗ Văn Nghị


6.

Loanh quanh nay đã sáu ba XUÂN
Tình báo, tình yêu cũng một VẦN
Định bỏ tình này thay mối khác
Ai hay cái nghiệp khoác vào THÂN.
 
                                              Đỗ Văn Nghị


7. Tự ngẫm


Đông sắp qua rồi, sẽ đến Xuân
Tạo hóa từ xưa cứ xoay vần
Có muốn đổi thay, thay chẳng được
Chịu khó làm ăn ấm vào thân
Nguyễn Khắc Nguyệt



Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2016

Trên bờ sông nắng

Vui buồn không còn sẻ chia
Thế là xa lơ, xa lắc
Lo toan cuộc đời thường nhật
Ai đang tất bật sớm chiều
Nào ai có buông dây diều
Vẫn biết trời cao gió gọi
Dòng sông bao nhiêu bến đợi
Trách đâu chỉ một con thuyền
Khác nhau bởi một chữ Duyên
Ơ kìa, bờ sông đầy nắng,,,


                      21/12/2016 
                   Đỗ Văn Nghị


Thứ Tư, 21 tháng 12, 2016

Gửi bạn về Nam


Tam cô nương đi về phía trời mưa
Ở ngoài này bao nhiêu người nhắc
Thân gái dặm trường lại đi Việt dét
Sao không ai là Cục trưởng hàng không?
Mà làm gì, cục trưởng cục hai nhăm
Mà làm gì, giám đốc Nha khí tượng
Mà làm gì, lái xe tăng thời chiến
Người thương "dì" nhất lại yếu chân
Về đi thôi, với lũ lụt miền Trung
Về đi thôi, với lo toan thường nhật
Hẹn một ngày lại về đất Bắc
Về với nhà mình ở xóm Tri Ân,,,


20/12/2016

Thứ Ba, 20 tháng 12, 2016

Cảm xúc 50 năm

       Đó là một ngày hội. Không, đó là những ngày hội mới đúng. Đối với các thế hệ thầy và trò Trường Cấp 3 Chí Linh trước đây và Trung học phổ thông Chí Linh ngày nay thì đúng là như vậy.

       Cái thị xã miền bán sơn địa này đã có những ngày sôi động và vô cùng đáng nhớ không chỉ với những người làm thầy, những học trò. Mấy ngày lễ hội thực thụ đó là dành cho rất nhiều người.
        Dịp đầu năm, các cựu học sinh Chí Linh tại Hà Nội đã đón đại diện của Trường để trao đổi về chuẩn bị cho lễ kỉ niệm 50 năm ngày thành lập. Hôm đó tôi đang nằm viện, bạn bè í ới gọi qua điện thoại mà không đến được, thật tiếc. Nhưng cũng từ hôm ấy, trí não bắt đầu già nua của tôi đã âm ỉ phục dựng lại một thời niên thiếu đói ăn mà ham học gắn với Trường cấp 3 Chí Linh. Những hồi tưởng ấy cứ đến tự nhiên, cả trong giấc ngủ, chẳng cần đợi tôi cố sức làm gì, cứ từng lúc, từng lúc ẩn hiện, đưa tôi về với những năm tháng ấy, với những bồi hồi, xốn xang như lúc tuổi mười lăm...
        Thế là nảy sinh nhu cầu tìm bạn cũ. Đâu rồi những bạn trai bạn gái ở cái lớp 8C và 9C của tôi. Từng ấy năm chưa gặp lại, giờ các bạn ở đâu?
        Tôi vào lớp 8 năm 1969, sau một năm ở nhà quai búa, thổi bễ lò rèn cùng bố. Cái năm thất học ấy chỉ làm tôi học chậm lại chứ không thể làm mất đi cái ham học của một cậu bé nhà nghèo. Niên học 68-69 trước đó, Trường Cấp 3 chỉ xét tuyển theo hồ sơ chứ không thi tuyển. Tôi bị loại vì không đủ tiêu chí. Chính thức thì là do tôi thi tốt nghiệp cấp 2 với môn Văn bị điểm liệt, trong khi 3 môn còn lại đều đạt điểm cao nhất, và tôi được xét vớt tốt nghiệp. Thế thì không được tuyển vào cấp 3 là đúng quá còn gì. Cái cảm giác ấm ức và tủi hổ như một nỗi đau trong ngày công bố kết quả ở sân trường Cấp 2 Tân Dân còn mãi đến giờ, khi cô Hiệu Phó đọc danh sách từng học sinh với giọng đều đều, đến tên tôi, bỗng giọng cô cao hẳn lên, gằn tách từng tiếng, chậm rãi: “Đỗ Văn Nghị, lớp 7A, vớt đợt 1”. Học sinh giỏi toàn diện của trường 3 năm liền, học sinh giỏi văn cấp tỉnh Hải Hưng còn ghi trong học bạ kia, sao lại trượt môn văn? Chắc là lạc đề, bạn bè an ủi tôi thế. Rồi cũng chẳng có phúc khảo, phúc tra gì nên tất cả chỉ là dự đoán thế thôi.
        Cái cú trượt ấy có lẽ là thử thách lớn nhất đầu tiên trong cuộc đời và nó hình như lại càng thôi thúc sự thèm khát học hành chăng? Năm sau, tôi đã dự thi và đỗ thẳng vào trường mà chẳng có nhiều ngày tự ôn lại bài vở. Cổng trường cấp 3 đã mở ra với cậu bé con nhà lò rèn như thế thì làm sao mà không sung sướng cho được?
       Ngày tựu trường đầy háo hức của tôi là một ngày đặc biệt, mùng 4 tháng 9 năm 1969. Bố đánh thức tôi dậy từ lúc 4 giờ sáng. Mẹ tôi phá lệ, nấu hẳn một niêu cơm nếp vào một ngày thường. Chưa đến 5 giờ sáng, với gói cơm nếp mẹ trao, tôi rời nhà cuốc bộ vào xóm Đồi Thông, cái địa chỉ mà ngày hôm qua khi nhắc đến, nhiều người đã rơi nước mắt.
        Chẳng có ai quen biết, tôi một mình ngơ ngác trên khoảng sân lớn trước dãy nhà lá của trường nằm bên chân đồi. Khoảng chừng hơn 7 giờ thấy một đoàn các thầy cô từ trong phía xóm đi ra, dẫn đầu là người mà sau đó tôi biết là thầy Hiệu trưởng Nguyễn Văn Hải. Trên cánh tay mọi người đều có dải băng đen. Chúng tôi nhốn nháo sắp hàng theo lớp. Thầy Hải cất giọng nghẹn ngào: “Các em thân mến, Bác Hồ kính yêu của chúng ta đã mất”. Cả sân trường im lặng như tờ, giọng thầy lạc đi, trĩu nặng. Đầu tôi cũng như u mê, chỉ còn nhớ là hôm đó chúng tôi được phổ biến ngắn gọn về để tang Bác và giải tán. Khi về đến phố Thiên, tiếng nhạc hồn tử sĩ từ radio nhà ai đó vọng ra, nghe thật não nề. Ngày đầu tiên vào trường là ngày nghe thông báo Bác mất, làm sao tôi quên được.
        Học kỳ đầu tiên chúng tôi, lớp 8C, học ở Đồi Thông như thế, để rồi đầu học kỳ 2 trường chuyển lên vị trí hiện nay ở Sao Đỏ, với những dãy nhà tranh, vách đất giữa rừng bạch đàn mới vài năm tuổi khẳng khiu. Cái nếp quen thuộc ngày ấy là học buổi sáng, một số buổi chiều thì lao động lấy cát hoặc đá ở con suối cạn mang về xây dựng trường. Có những buổi trưa, theo các bạn lên mấy quả đồi hái sim. Có lần còn mò vào tận chùa Hun chơi, lúc về ngang rừng dọc, vặt mấy quả gần chín ăn với nhau. Lúc gặp mấy chú dân quân bị khám túi, tuy mấy quả định đem về cho bạn đã kịp vứt đi, nhưng họ bắt nhe răng ra, thằng nào bám nhựa vàng là được thưởng cho một cái bớp tai đến hoa cả mắt.
        Trước dịp lễ kỉ niệm vài ngày, tôi lại lăn đùng ra ốm. Trời lạnh quá, lại có gió và mưa phùn, thế là cảm lạnh, thế là ho. Hai ngày co ro trong chăn với đủ mọi cố gắng điều trị cấp tốc của bác sĩ “vợ”, may sao đến chiều 16 mồ hôi vã ra như tắm, đầu nhẹ hẳn. Tôi lau người bằng nước ấm, đánh được bát cơm chan canh và thêm vài viên thuốc nên sáng 17 kịp theo các bạn ở Hà Nội nhằm hướng Chí Linh thẳng tiến. Ở đấy có nhiều người đang đợi chúng tôi. Cái háo hức thật khó tả bằng lời.
        Tại khách sạn Sao Đỏ, nhóm chúng tôi từ Hà Nội về cùng mấy bạn từ trong Nam ra vừa kết thúc một cuộc gặp gỡ thì mấy xe to kềnh càng vào sân và rất nhiều người xuống sảnh. Thì ra, xe của Ban tổ chức đón các thầy cô ở Hà Nội, Hải Dương về dự ngày hội trường. Tuyệt vời thế, chúng tôi thành những người đầu tiên cùng Ban tổ chức đón các thầy cô. Thầy Nguyễn Văn Hải kia rồi, mái đầu bạc trắng, nước da vẫn hồng hào, đi ngay sau là cô Điểu, thầy Thịnh và nhiều người khác mà tôi chưa kịp nhận ra. Đám học trò giờ cũng đầu điểm bạc ùa ra, tay bắt mặt mừng, rối rít, nhiều người ôm lấy các thầy cô giọng cứ nghẹn đi, thầy ơi, cô ơi, thầy ơi, cô ơi, ồn ào, gấp gáp. Rồi mọi người cứ đứng hết cả ở gian sảnh mà hỏi chuyện nhau, mà nhớ ra nhau. Ban tổ chức thật vất vả sắp xếp chỗ ăn nghỉ trong khung cảnh náo nhiệt ấy. Gần 50 năm, bụi thời gian làm già nua gương mặt. Thầy cô không nhận ra đúng tên nhiều trò cũng là lẽ thường tình, mà ngay cả học trò một số người cũng ngỡ ngàng và tự trách mình sao chưa nhận ra tên một thầy cô nào đó. Tôi chỉ nhận ra Thầy Hải, cô Điểu, thầy Thịnh, cô Tú. Hỏi một bạn đứng bên mới biết thầy Vĩnh đang đứng trong nhóm mấy học trò. Tôi chạy đến, cúi đầu chào thầy bằng tiếng Nga. Ôi cái ông giáo chỉ dạy tôi có một năm ấy, đã gieo vào tôi tình yêu tiếng Nga sâu sắc đến thế và có thể nói không ngoa rằng chính tình yêu tiếng Nga đã làm thay đổi cuộc đời tôi về sau.
        Cô Tú thì đã về trước mấy chục phút, giờ cũng cùng thầy Thịnh, thầy Tuân, cô Song Thu và các thầy cô khác vào Trường dự Giao lưu cán bộ, giáo viên, công nhân viên. Đám học trò tản ra, đứa theo lớp đi liên hoan, đứa vào khu trại dành cho từng khóa tìm bạn, cứ lang thang hết chỗ này chỗ khác trong sân trường.
        Đúng là ngày hội thật, chiều 17 đã rất vui. Các cháu học sinh ở sân chung trước các trại chơi ném còn, nhiều nhóm con trai con gái đá cầu, trêu đùa nhau ầm ĩ. Cứ có khách vào trại mình là chúng lại ùa về như đàn chim tíu tít hỏi han, mời uống nước, mời ăn trái cây và lấy điện thoại ra xin chụp ảnh thật đáng yêu.
        Tự dưng tôi muốn một mình lúc này. Có cái gì đó dào dạt trong tôi không muốn bị ảnh hưởng bởi người khác. Lặng lẽ rời mấy đứa bạn thân, tôi đi thật chậm, từng bước, từng bước một trên sân trường. Cái ồn ào vẫn náo nhiệt xung quanh, nhưng trong tôi lại có một sự yên lặng đến kỳ lạ. Thỉnh thoảng, giống như trong một căn phòng đóng kín, cánh cửa sổ mở ra, tiếng ồn ngoài phố ùa vào. Cánh cửa sổ khép lại, âm thanh tự dưng biến mất. Tôi đang giữa sân trường náo nhiệt mà lòng yên tĩnh đến thế, chỉ thấy những hình người đang đi, các cháu học sinh đang chạy nhẩy, chen nhau chụp ảnh mà không có tiếng động, lạ thế. Đây rồi, cây xà cừ đã 45 năm tuổi sừng sững trên sân trường, vươn tán lá che kín cả một khoảng sân rộng. Nghe nói nó được trồng vào cuối tháng 5, đúng ngày bế giảng khóa 68-71. Mấy cây phượng đã được dời đi chỉ còn cây xà cừ này được giữ. Giá có cách gì để hiểu được ngôn ngữ của cây, để tôi hỏi cây đã chứng kiến gì suốt 45 năm ấy? Để hỏi cây có còn giữ được hình ảnh về cái lớp 9C của tôi với Bí thư chi đoàn Xuân, với đám học trò Tân Dân, An Lạc, Hoàng Tân, Hoàng Tiến, Hưng Đạo. Để tôi hỏi cây về người bạn gái mà tôi thầm yêu vụng nhớ ngày ấy... giờ này em đang ở đâu?...
        Chiều muộn tôi trở về Hà Nội. Tự nhủ, ngày mai tôi sẽ mặc bộ quân phục mới nhất đã treo trong tủ từ hai năm nay. Với một lễ trọng như thế này tôi muốn mặc lại bộ quân phục đã gắn bó cả cuộc đời tôi từ ngày nhập ngũ năm cuối lớp 9. Cái ngày mà tôi nhớ như in ấy là 12/5/1971.  Buổi chiều, cả lớp 9C đã đến nhà tôi ở Ngã tư Giang, xã Tân Dân để tiễn đưa người lớp trưởng của mình ra trận. Các bạn về rồi mà vẫn còn mấy bạn gái ở lại cả buổi tối và chúng tôi cứ xoắn lấy nhau nói đủ mọi chuyện cho tới đêm khuya. Sáng hôm sau, tôi lên đường, mấy bạn đi học qua còn ghé vào chào tôi lần nữa: “Đi nhé, chân cứng đá mềm, lập chiến công nhé, nhớ viết thư về”. Vâng, tôi đã vào miền Nam chiến đấu với lời nhắn nhủ ấy và một lá thư chung về cho cả lớp 9C. Tôi còn quá ngây thơ và vô tư để không biết rằng có người bạn gái đã mỏi mòn chờ thư riêng của tôi. Còn chiến công ư? Tôi chẳng lập được chiến tích gì đặc biệt, có chăng chỉ là đã vượt qua lửa đạn, gian khổ, ác liệt, làm tròn bổn phận một người lính ở ngoài mặt trận và sống sót trở về. Tôi muốn mặc bộ quân phục để các bạn cũ dễ nhận ra tôi và cũng để tôi báo cáo với cả lớp: “Lớp trưởng đã hoàn thành nhiệm vụ của người lính trong suốt 44 năm và hôm nay, ngày hội của mái trường thân yêu, lớp trưởng 9C có mặt ở đây cùng các bạn”.
        Sáng 18 về rất sớm. Thời tiết thật đẹp. Giữa mùa đông mà trời trong sáng, không lạnh. Hay là ông bạn tôi, nguyên Tổng giám đốc Trung tâm khí tượng thủy văn có bùa phép gì đây mà buổi sớm trong lành đến thế. Chúng tôi trêu đùa nhau trên xe, cứ mày mày, tao tao như thuở nào. Vị tiến sĩ khai khoa Trường Cấp 3 Chí Linh là người có xe cho chúng tôi đi cùng hôm nay diện một bộ comple mầu tối như chính khách. Mà nó là một chính khách chứ còn gì. Bao năm đứng đầu một ngành quan trọng thế của đất nước, thường xuyên làm việc với lãnh đạo đất nước và các chính khách quốc tế cơ mà. Ông bạn lính xe tăng chính hiệu của tôi thì diện bộ xám nhạt rất nhã, khác hẳn với cái áo khoác và quần vải thô “bụi bụi” thường ngày. Hóa ra không ai bảo ai, chúng tôi đều mặc thật đẹp. Suốt chặng đường dài, những câu chuyện về thời học sinh cứ quay đi quay lại giữa chúng tôi. Về đến Sao Đỏ dù còn sớm trước giờ, nhưng bạn bè các khóa đã réo trên điện thoại. Thế là bỏ cả ăn sáng, ba thằng hòa vào dòng người nườm nượp đổ vào cổng chính trang hoàng rực rỡ cờ hoa.
       Buổi mít tinh với lễ nghi giống như nhiều hoạt động tương tự ở các nơi khác, nhưng có mấy điểm thật đáng kể. Sự quan tâm của lãnh đạo Đảng, chính quyền từ cấp tỉnh trở xuống rất rõ nét khi Bí thư Tỉnh ủy Hải Dương có mặt cùng các lãnh đạo khác của tỉnh và các ban, ngành. Với thị xã thì tất cả lãnh đạo đều ở đây. Sau lễ đón nhận Huân chương Lao động Hạng Nhì, đ/c Bí thư Tỉnh ủy đã đọc diễn văn chúc mừng. Phần cuối, ông không đọc trong văn bản nữa mà nói vo. Khi không còn lệ thuộc vào văn bản, ông mới diễn đạt trôi chảy được hết ý kiến của mình và rất thuyết phục. Ông cũng giao nhiệm vụ cho thầy trò Chí Linh phải phấn đấu lọt vào nhóm 3 trường mạnh nhất tỉnh. Tôi rất ấn tượng với phát biểu cảm tưởng của thầy Hải thay mặt các thế hệ giáo viên, khi ông nhắc tới những người thầy đã mất trong chiến tranh, khi ông kể về một người thầy đã đứng trong đội ngũ cùng một học trò của mình chiến đấu trên chiến trường Lào. Mắt tôi đã rưng rưng lệ khi ông nhắc đến sự đùm bọc và yêu thương của chính quyền và bà con nhân dân Đồi Thông dành cho nhà trường những năm đầu thiếu thốn.
       Sau buổi mít tinh và liên hoan nhẹ, tôi bổ xuống trại của khóa 69-72 tìm bạn. Các cháu cho biết mọi người đã ra nhà hàng Hoa Lượng cách đó không xa. Tôi đã thấy một nhóm hơn chục người ở cái tầm tuổi lứa chúng tôi đang quây quần bên nhau ở một góc nhà hàng. Hóa ra, đó đúng là các bạn khóa tôi đang tìm. Nhìn qua một lượt tôi không nhận ra ai và cũng chưa ai nhận ra tôi. Đành phải tự giới thiệu và được các bạn tiếp nhận rất nhiệt tình. Thì ra đó là mấy bạn ở các lớp A, B và D. Không có ai ở lớp C cả. Tôi hơi bị hẫng. Thế là tôi vẫn chưa biết tin tức về bất cứ ai ở lớp C trừ mấy người cùng xã nhưng hôm nay cũng không có mặt. Chỉ một loáng, những rụt rè ban đầu qua nhanh, chúng tôi đã dần dần nhớ ra nhau. Đã 45 năm kể từ ngày tôi ra đi giờ mới gặp lại, chúng tôi chẳng dễ gì nhận được ra nhau nhưng những kỉ niệm chung về học hành, thể thao văn nghệ thì mọi người đều nhớ và chúng được nhắc lại một cách hào hứng suốt buổi chúng tôi bên nhau. Từ đây, tôi đã có một địa chỉ để đi về. Đây sẽ là điểm cầu để tôi tìm thêm các bạn lớp C của tôi.
       Trên xe về Hà Nội, những câu chuyện vẫn còn rôm rả lắm. Ông bạn lính xe tăng ngả người trên ghế kéo bễ khò khò. Tưởng hắn ngủ hóa ra vừa ngủ vừa nghe, chốc chốc lại đế vào mấy câu rồi lại khò tiếp. Chúng tôi đã thực sự sống lại những năm tháng tuổi thiếu niên. Những ngày hội này sẽ là một nguồn năng lượng tiếp thêm cho chúng tôi sức sống mới, gắn bó hơn với nhau, gắn bó hơn với cội nguồn gốc rễ của mình, với nơi mà từ đó chúng tôi ra đi, thành người tử tế như hôm nay.

         Kỉ niệm 50 năm trường PTTH Chí Linh đúng là những ngày lễ hội trong tôi và sẽ theo tôi rất nhiều năm nữa. Tôi sẽ kể cho con và cháu tôi nghe nhiều nữa về mái trường thân yêu này của tôi - Trường  Cấp 3 Chí Linh - cái tên gắn với thời niên thiếu của tôi./.
Ngày 19/12/2016
Đỗ Văn Nghị

Thứ Sáu, 30 tháng 9, 2016

Giâu gia xoan

       Ngắm bức ảnh con rồng đất - giâu gia xoan, hình dung nó quẫy đuôi như đang chực vượt qua bờ đất để bỏ ông mà đi, tự dưng thấy nao nao trong lòng...
     Ngày bé, chùm giâu gia xoan là một món quà chợ của mẹ. Cái chùm quả nhỏ, vài quả còn xanh, mấy quả chín ương ương và những quả mọng mầu hồng sẫm, được buộc bằng một sợi rơm hay cái lạt sao mà quyến rũ thế. Mấy anh em xúm lại khi mẹ vừa đặt cái rổ đi chợ về, lấy chùm quả ra chia cho mỗi đứa vài dảnh, đứa bé nhất sẽ được phần nhiều nhất như lẽ tự nhiên ở cái nhà này. Mẹ không quên dành cho đứa đang đi học một phần xứng đáng. Rồi mẹ tất tả lo chuyện cơm nước bữa trưa của cả nhà và những người bạn thợ của bố. 
       Bận phụ việc thổi bễ lò rèn nên nó tắc lẻm hết ngay. Cái Việt thì chỉ nhón vặt một hai quả rồi còn để dành cho đến tận sau bữa trưa, khi bố và mấy chú thợ đã ngáy khò khò sau bữa cơm, mới bày ra bán hàng. Thế là, chỉ cần vài mảnh giấy gập lại làm tiền, có thể mua được nhiều quả nữa từ cái hàng quà của cô em gái kém 2 tuổi. 
       Cái ngày dễ đến hơn nửa thế kỉ rồi...
      Lớn hơn chút nữa, mới biết đến cái cây cho loại quà quê dân dã ấy ở hè nhà ông thợ cắt tóc phố Chợ. Đúng mùa hoa nở trắng trên cây và rụng đầy cánh mỏng manh trên nền đất. Lá ấy, hoa trắng mịn màng ấy, mùi hương ngai ngái ấy, mới biết sao lại gọi là giâu gia xoan.
      Một lần khác, đang là chiến sĩ huấn luyện ở huyện Kinh Môn, buổi đi gánh than cám từ bến sông về, chỉ với mấy hào mà cả tiểu đội được nửa mẹt giâu gia chín mọng của một bà cụ hàng nước bên đường. Món giải khát mấy chục năm rồi mà giờ ngồi gõ những chữ này vẫn còn ứa nước trong miệng...
      Nhưng giờ thì không thấy ai bán nữa, ở đâu chứ phố xá Hà Nội thì không. Trẻ con giờ cũng suốt ngày trong trường, trong lớp và thứ quả quê mùa kia không còn hấp dẫn nữa. 
      Thời gian trôi và mọi sự đã đổi thay rồi...
    Ông giáo già hẳn là phát hiện ra cái thế rồng quẫy này vào lúc ngồi nghỉ cho ráo mồ hôi, sau một hồi cuốc đất, nhặt cỏ. Cứ hay đoán mò thế, vì để trông thấy cái cây trên bờ đất này thì có khi là trước đó rồi, lúc đang phát bờ hay dọn góc vườn kia. Nhưng nó chỉ thành rồng khi ông ngồi nghỉ và cái trí tưởng tượng phong phú, có chất thơ ca bay bổng mới choán lấy tâm hồn ông, Và chắc là ông vui lắm, ông chạy vào nhà lấy máy ra chụp và làm thơ để khoe với bà, khoe với trò, khoe với bạn Tri Ân.
     Chắc là chẳng ai lại đi trồng cái cây ở chỗ cheo leo đến thế. Nó tự đến đấy chứ. Chợt nghĩ, cuộc sống thật nhiều sự bất ngờ, khó đoán định và lựa chọn biết bao. 
     Một thằng bé con nào đó vừa ăn dỗ em gái được vài quả chín, đi qua đánh rơi xuống bờ đường? 
   Một con chào mào vừa sổ lồng nhà ông đầu xóm, vớ được quả chín mọng ăn rồi nhả hạt xuống đây?...
    Hay là... 
   Nhưng dù sao thì cái cây ấy đang có thực. Nó bám cheo leo trên cái bờ đất và thoải mái vung bộ đuôi hoành tráng chờ gió lớn. Mùa hoa, chắc nó là Bạch Long Vĩ chứ chả chơi. Đất lành chim đậu, mà nay rồng đang ghé đến thế này cũng là sự lạ. Chim đậu rồi chim cũng bay đi. Rồng ghé đến rồi thăng cũng là lẽ thường tình. Nhưng dấu vết ấy của Rồng Giâu Gia ở vườn nhà ông giáo chắc sẽ còn mãi trong kho ảnh của Tri Ân Cuộc Đời và trong trí nhớ của đám học trò giờ cũng không còn chơi bán hàng và ăn dỗ em được nữa....

29/9/2016
Đỗ Văn Nghị

Thứ Tư, 28 tháng 9, 2016

Xem bóng đá


Ngoại hạng Anh, Mờ-u đá muộn
Một mình xuýt xoa, tấm tắc giữa đêm
Vợ ôm gối ra nằm xem cạnh
Hay..hay, chồng, sao không thấy...
                                                      ...Hồng Sơn(?)

                                                            24/9/2016
                                                           Đỗ Văn Nghị

Thứ Ba, 27 tháng 9, 2016

Đá vụng

Thấy lũ choai choai đá bóng phát thèm
Trước tớ cũng gôn tôm hay phết

 Nhẩy vào đá chừng mười lăm phút
 Khập khiễng về, vợ hỏi, “tự nhiên đau” (!)
 
                                                                              9/2016
Đỗ Văn Nghị

Thứ Hai, 26 tháng 9, 2016

Ăn cưới



Bàn tiệc mười người chẳng có ai quen
Bia cứ rót, nhạc cứ ầm, đến khổ
Chờ mãi mới được chào gia chủ
Ai bảo cưới bây giờ “cơm bụi giá cao”?

15/9/16
Đỗ Văn Nghị

Chủ Nhật, 25 tháng 9, 2016

Nhiêu khê


Nhà cao tầng giàn hoa ở ban công
Cứ vươn hết ra ngoài tìm nắng
Ngày ngày tưới mà không được ngắm
Vợ bảo: ông gom tiền sắm lấy cái ... trực thăng..

18/9/16
Đỗ văn Nghị

Thứ Bảy, 24 tháng 9, 2016

Hoa hồng gai


Gai hoa hồng gẫy buốt lòng tay
Cứ lẩm bẩm mình chưa già đã vụng
Rồi cả căn phòng ngập trong hương nồng đậm
Chả trách người đời vẫn cứ thích hồng gai...

18/9/2016
Đỗ Văn Nghị

Thứ Sáu, 23 tháng 9, 2016

Nhớ quê


Trong thang máy mọi người đều quen mặt
Chẳng ai hỏi, ai chào, rõ ra vẻ người dưng
Ở chung cư, lòng người như đá cuội?
Sao chưa bỏ nơi này về với quê hương?

16/9/2016
Đỗ Văn Nghị

Thứ Năm, 22 tháng 9, 2016

Ám ảnh

Tiếng cười em trong trẻo vô tư
Không tả được bằng lời tôi quê kệch
Thấy lồng ngực rung lên từng nhịp
Thương con tim chưa biết đã già
Đưa tôi về những tháng ngày xa
Một nụ cười suốt cuộc đời ám ảnh
Đã không tìm về em sau ngày toàn thắng
Để người ấy bây giờ thành người ngày xưa...

Đỗ Văn Nghị

Thứ Tư, 21 tháng 9, 2016

Thăm đền Taj Mahan



“Sao nàng vội đi, để lại nỗi đau này
Khắp vương quốc một ngày trời tắt nắng
Khắp kinh thành một tháng liền vắng lặng
Và lòng ta đau đớn sẽ bao năm...?”
... Mấy thế kỉ rồi, hôm nay tới thăm
Lòng trai trẻ bồi hồi xúc động
Đá nói đấy, từng lời thầm lặng
Nghe cồn cào như từ một làn môi
Vua chúa cũng là người, như mình cả, em ơi
Cũng có nghĩa tình trong bạc vàng, nhung lụa
Và tình yêu, tình yêu muôn thuở
Có trước khi anh và em yêu nhau
Sáng giữa đất trời, cho đến mai sau
Bài thơ tình yêu tạc bằng đá trắng
Soi bóng xuống dòng sông im lặng
Như lời nguyền còn mãi với thời gian
Anh chợt nghe giữa tĩnh lặng không gian
Cả một công trường đang mài, đẽo đá
Những người thợ một đời vất vả
Trộn mồ hôi mình cho đá trắng hôm nay
Cháu con họ, còn ai ở nơi đây
Trong những con người nghèo nàn và chất phác?
Có ai nữa hôm nay còn giữ được
Nét tài hoa nghề chạm đá truyền đời
Anh bỗng thương em ở tận cuối trời
Lam lũ sớm hôm mình em toan tính
Chưa đến được nơi hôm nay anh đến
Agra mảnh đất đượm tình người
Taj Mahan, anh dừng một ngày thôi
Chưa thấy hết nỗi niềm trong thớ đá
Nhưng bỗng hiểu tình yêu là tất cả
Và nhớ em đến tê tái cả lòng
Có tình yêu mới trọn nghĩa vợ chồng
Tình nghĩa ấy không dễ gì có được
Hiểu thêm nhau mỗi đoạn đường ta bước
Mỗi sợi trắng trên đầu, đánh dấu một ngày xa
Anh thẩn thơ trong nỗi nhớ nhà
Bỗng muốn dựng một lâu đài đá trắng
Tạc vào đó tình anh thầm lặng
Ghi đến ngàn đời cái nghĩa của em
Taj Mahan anh ngồi đợi trăng lên...

                    Agra, Ấn độ - 15/8/1992
                             Đỗ Văn Nghị