Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -
Hiển thị các bài đăng có nhãn ST GIỚI THIỆU. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ST GIỚI THIỆU. Hiển thị tất cả bài đăng

Chủ Nhật, 23 tháng 7, 2023

LÁ THƯ KHÔNG KỊP GỬI



         Nội dung 1 bức thư đã lưu lạc suốt 34 năm của Liệt sĩ Nguyễn Thái Hòa. Anh gửi về cho người yêu trước khi bước vào một cuộc hành quân mà chính anh cũng không biết ngày trở lại.
* * *
     Trích đôi ba dòng: "Em yêu thương và nhớ mãi của anh! Chỉ còn 3 giờ đồng hồ nữa là anh tạm biệt nơi đây. Có lẽ chiến thắng của quân dân ta ngày mai có thể có cả công của anh, nhớ theo dõi tin thắng trận và mừng cho anh em nhé. Nhận được thư này đừng nên lo lắng nhiều và buồn em nhé, tan giặc anh về, chờ anh! Vì chuyển nên đừng ghi theo địa chỉ cũ nữa, khi nào có địa chỉ mới anh báo tin sau."
     Và lá thư ấy đã không kịp gửi, anh cũng không biết địa chỉ mới của anh ở vị trí nào vì sau cuộc hành quân đó phía trước tên anh đã có thêm hai chữ "Liệt sĩ". Anh hy sinh cách đó 2 tuần ở một nơi cách người anh yêu đến 400km và lời hứa tan giặc anh về cũng không bao giờ thành sự thật. "Cô gái của anh" chỉ nhận được lá thư này sau ngày anh mất đúng 34 năm và khi đó cô đã không còn là cô gái trẻ trung như ngày nào nữa.
     Chiến tranh khắc nghiệt như vậy đó! Nó chia cắt dân tộc, chia cắt con người và biến mọi thứ giản đơn thành những điều không thể. Sống trong những năm tháng hòa bình chúng ta không thể hiểu hết được cha ông ta đã phải trải qua những gì để giữ gìn lại hòa bình cho mảnh đất quê hương, không chỉ máu xương mà đôi khi là tình yêu, là hạnh phúc, là cả cuộc đời...

Vân Anh Sưu tầm (Bài đăng trên FB: TRI ÂN CUỘC ĐỜI)
(ST)

Thứ Hai, 18 tháng 7, 2022

ĐỌC KHOẢNG TRỜI NGƯỜI LÍNH CỦA LÊ ANH QUỐC




Tôi hoàn toàn không quen biết người lính Lê Anh Quốc, càng không biết có nhà thơ tên là Lê Anh Quốc. Vô tình đọc được thơ anh trên Facebook, tôi không thể làm được việc gì khác ngoài việc viết cảm nhận về trường ca hơn 500 câu “Những người lính sinh viên” của anh. Tôi rất ít khi bình thơ, phải xúc động lắm mới viết. Được biết anh nhập ngũ năm 1971, khi đang là sinh viên. Một người lính sinh viên, một nhà thơ lính. Một người trong số hơn 10.000 sinh viên các trường đại học của Hà Nội lên đường vào Nam chiến đấu từ năm 1970 đến năm 1972. Hơn một nửa đã hy sinh tại các mặt trận, nhưng nhiều hơn cả là hy sinh tại chiến dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị những tháng ngày đỏ lửa. Tôi gõ tên anh cùng tên bài trường ca của anh trong Google. Không thấy. Nghĩa là anh không nổi tiếng, thơ anh thuộc loại “chưa được xếp hạng” theo cách xếp hạng của giới tự phong cho mình là chuyên nghiệp.
Thơ về chiến tranh có hai giai đoạn. Giai đoạn trong chiến tranh và giai đoạn sau chiến tranh. Thơ chiến tranh trong chiến tranh mang tính động viên ca ngợi với âm hưởng chủ đạo là cảm hứng sử thi. Phạm Tiến Duật: “Đường ra trận mùa này đẹp lắm!” hay Nam Hà “Chúng con chiến đấu cho Người sống mãi Việt Nam ơi!”.
Thời kì hậu chiến, khi đã có độ lùi của thời gian, bối cảnh xã hội và tâm thế sáng tạo cho phép người viết được tái hiện chiến tranh thiên về chất trữ tình triết lí, chiêm nghiệm. Cốt truyện không còn là điều quan trọng như trong trường ca truyền thống mà mang yếu tố tự sự nhiều hơn. Trường ca Những người lính sinh viên nằm trong số đó. Tác giả không nhận mình là thi sĩ chuyên nghiệp: “Chúng tôi đi đánh giặc những tháng năm dài Phút khuây khỏa Làm thơ trên báng súng. Đời chẳng tĩnh Nên câu thơ quá động. Lục bát trèo Lên võng Đung đưa…”.  Lục bát trèo lên võng đung đưa là thơ nó tự trèo lên người lính. Câu thơ thật hay, chuyên nghiệp chắc gì nghĩ ra. Thơ anh tự sự nhưng không phải tự sự của “tôi” mà là của “chúng tôi”, những người người lính có học mà anh gọi là lính sinh viên, từ ruột gan người lính. Những vần thơ mộc mạc, tự nhiên như chính đời lính gian khổ, đói rét, hy sinh, ngời sáng tình đồng đội thiêng liêng cao thượng. Nói về thế hệ mình, anh tự hào: “Thế hệ chúng tôi ! Ai cũng dễ thương, Thơm thảo như hoa, Ngọt ngào như trái. Tình đồng đội lòng không cỏ dại, Nghĩa đồng bào - Bầu, Bí thương nhau.” Anh nói về sự hy sinh của các chị các em các mẹ mà anh cho là cao cả hơn sự hy sinh của người đàn ông: “Thế hệ chúng tôi phụ nữ muộn chồng Nhiều đứa quá thì nên cầm lòng vậy Đời con gái chín dần trong cây gậy Rụng xuống đường lọc cọc tiếng đơn côi.” Chỉ người đàn ông đích thực mới nhìn thấy cái mất mát đáng sợ do chiến tranh mang lại cho người đàn bà: “Con dâu nằm chung với mẹ chồng, Tay bó gối phòng lúc mình mê ngủ. Hai cái thiếu chẳng làm nên cái đủ. Dưới mái nghèo năm tháng vắng đàn ông.” Hình ảnh chiếc võng được lính liên tưởng như vầng trăng khuyết, như con thuyền chở lòng căm thù giặc, như cánh cung mà mỗi người lính là một mũi tên. Người lính còn biết mơ mộng một ngày đỗ đạt vinh quy bái tổ ngồi trên võng. Thương quá những chàng sinh viên gác bút nghiên đi đánh giặc! Nói về sự lạc quan của người lính, khó ai có thể nói hay hơn: “Chúng tôi cười Cười chật đất Cười chật sông Cười chật suối...” Về cái đói của lính, anh cũng có cách nói rất độc đáo đồng thời lại rất thật: “Không sợ giặc, không sợ đạn bom rơi, Cái sợ nhất lúc này là đói. Đói vàng mắt, Đói long đầu gối, Đói phạc phờ, Đói thừa cả chân tay...! Mà lạ chưa? Vào chính lúc này, Chúng tôi lại đánh lui quân giặc.” Kết thúc chiến tranh, anh không quá say sưa chiến thắng mà nói về làng quê, về đời sống của người dân và đương nhiên là nói về mẹ: “Bây giờ mắt mẹ đã mờ, Nhìn tôi bằng “ngón tay rờ” run run” Câu thơ tuyệt hay. Cần gì phải nói bao năm chờ đợi mẹ khóc đến mù hai mắt, chỉ cần hình ảnh nhìn bằng tay là đủ lay động lòng người. Anh có một “nỗi buồn chiến tranh” giống mọi người: “Bao cô gái Bao chàng trai Lứa tuổi đôi mươi Đã nằm xuống dưới bạt ngàn nấm mộ Những cái tên… ngày nào xanh nhãn vở Giờ xếp hàng Đỏ rực nghĩa trang.” Không phải rất nhiều nấm mộ mà là chỉ một nấm mộ thôi nhưng bạt ngàn. Thơ đấy chứ đâu, nghệ thuật đấy chứ đâu nữa! Và một nỗi buồn rất khác. Các anh trở về với luống cày cây lúa. Thời trai trẻ đã qua đi, không được học hành như mơ ước. Trong thời đại công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật, các anh bị lạc hậu: “Không thể đem việc đổi xạ - bóp cò, Làm công nghiệp trong thời mở cửa. Ta sẽ chẳng vượt qua đói khổ, Nếu chân mình còn nặng đế cao su!” Đau hơn cả là cái tương lai tươi sáng mà vì nó các anh đã chiến đấu hy sinh vẫn còn xa chưa đến: “Ta đã qua dài rộng rừng sâu, Chân đã thuộc những nẻo đường ngang dọc, Mà bây giờ trước đồng, trước ruộng Sao ta đi, đi mãi... chẳng đến bờ? Vẫn chỉ là muôn thuở: Đói hay No? Mà lăn lóc cả đời với đất Từ mặt trận, mang Cái còn - Cái mất Trở về làng đánh đổi Cái có - Cái không...” ***** Tôi bỏ cả ăn sáng, viết cho xong bài này.
Hãy cho tôi một lần được làm người bình thơ, hãy cho tôi thắp nén tâm nhang cho anh, người lính thơ, nhà thơ lính. Có thể anh không có danh xưng nhà thơ (tôi không rõ lắm) nhưng anh là nhà thơ trang trọng trong tôi, trong những người bình thường và những người yêu thơ. Chúng ta căm ghét chiến tranh, chúng ta mong con cháu mình không bao giờ phải cầm súng, không muốn rồi sẽ có những người lính sinh viên như anh. Nhưng để mong muốn đó thành hiện thực, chúng ta phải trân quý những người như anh - người lính vô danh, nhà thơ thầm lặng!

(Bài sư tầm)
Phan Chi

Thứ Hai, 26 tháng 10, 2020

GIẤU ANH VÀO NỖI NHỚ CỦA EM

( Một bạn nào đó đã gửi cho Song Thu bài thơ này. Song Thu thấy hay, nên mang về đây. Rất tiếc là bạn ý cũng không biết tác giả thi phẩm này là ai. Nếu ai biết xin mách giùm Song Thu nhé)



Có một ngày anh thôi đi về phía em
Ánh mắt, bờ môi không còn da diết cháy
Em sẽ không trách anh đâu. Anh hãy tin là vậy
Chỉ xin một điều được giấu anh vào nỗi nhớ của em.
Chỉ xin một điều được giấu anh vào nỗi nhớ của em
Khi cơn mưa nửa đêm chợt ào qua ngõ
Khoé mắt em cay cay nỗi niềm vô cớ
Con dế trở mình run rẩy gọi người thương.
Sẽ giấu anh vào trăm ngả vấn vương
Rằng gừng cay sao vẫn còn muối mặn
Nơi hạnh phúc bỗng mọc nhành cay đắng
Những ngậm ngùi lại khe khẽ cất lên.
Giấu anh vào khắc khoải trái tim em
Thoảng một cái tên cũng giật mình thổn thức
Nghe tiếng cười quen đã nhói đau lồng ngực
Giấu anh vào nơi không thể nguôi quên,
Cho anh chạm vào thăm thẳm của đêm
Lạnh giá của băng. Cháy lòng của lửa
Buốt nhói sương khuya. Mịt mù giấc ngủ
Cho anh chạm vào nức nở gió mùa đông.
Có những con thuyền không cùng neo đậu một dòng sông
Những hàng cây không chung mùa lá rụng
Những chiếc giường không cùng chung giấc mộng
Chẳng thể chạm vào da diết cõi lòng nhau.
Chẳng thể chạm vào. Nên lặng lẽ mà đau
Xin được giấu anh vào tận cùng nỗi nhớ.
Em vẫn cứ yêu anh dù chỉ còn một hơi thở,
Nhắc suốt đời này cũng chỉ bấy nhiêu thôi...

(Sưu tầm, không rõ tên tác giả)

Thứ Bảy, 12 tháng 9, 2020

NUÔI DẠY CON 4.0




Chắc ai làm cha làm mẹ cũng đều mong muốn con mình Bình An, Hạnh Phúc và Thành Công.
Có lẽ ai làm cha mẹ cũng có lúc cảm thấy áp lực vì con ương bướng, nói không nghe lời, làm ngược lại lời cha mẹ, ăn vạ…
Có những cha mẹ cảm giác hoang mang style không biết mình hành xử với con trong những trường hợp con như vậy có đúng hay không, đã tốt hay chưa, có hiệu quả không chứ chưa được hưởng niềm vui hạnh phúc làm cha mẹ của mình.
Và Chi cũng không phải ngoại lệ. Chính vì vậy mà khi biết được thông tin lớp học nuôi dạy con 4.0 Chi đã đăng ký tham gia.
Lớp học thì dạy nhiều lắm như: 5 vai trò của bố mẹ, nguyên tắc trong việc nuôi dạy con, các giai đoạn phát triển của con để ứng dụng nuôi dạy với từng giai đoạn, các giai đoạn vàng của con để phát triển thể chất, trí tuệ, ngôn ngữ…
Vì Chi mới có 1 bạn bé 02 tuổi nên Chi quan tâm và ghi nhớ những vấn đề liên quan đến nuôi dạy con giai đoạn 1-3 tuổi nhiều nhất và qua 02 ngày học Chi thấy tâm đắc nhất được những điều đã học được như sau:

1. Giai đoạn trẻ từ 1-3 tuổi là giai đoạn mà khả năng vận động và ngôn ngữ của trẻ được hoàn thiện, giai đoạn này cái tôi được hình thành, chính vì vậy mà trẻ có các biểu hiện: bướng bỉnh, ngang ngạnh, tự tiện (vô lễ, chống đối, chuyên quyền). Do vậy, giai đoạn này là giai đoạn bố mẹ chú ý phát triển vốn từ cho trẻ, phát triển về vận động cho trẻ, thừa nhận cảm xúc của trẻ như 1 phần tự nhiên và dạy trẻ biết cảm nhận cảm xúc của người khác.
Quan trọng nhất ở giai đoạn này bố mẹ cần phải hiểu con trẻ - hiểu được tại sao con lại làm như vậy, hiểu được kênh tiếp thu thông tin của con là kênh nào (kênh thị giác, kênh thính giác hay kênh vận động). Ví dụ con là người tiếp thu qua kênh vận động thì cần ôm ấp con, con tiếp thu qua kênh thính giác thì nói yêu thương con và giải thích cho con…

2. Một điều tâm đắc nữa Chi học được từ khóa học đó là bố mẹ hãy nói chuyện với con lúc con rơi vào trạng thái thôi miên (lúc con mơ màng chuẩn bị rơi vào giấc ngủ): lúc này cha mẹ nếu ban ngày trót đánh con thì có thể xin lỗi và nêu lý do vì sao cha mẹ lại làm vậy, lần sau con cần làm gì để ba mẹ không đánh con nữa, hoặc nếu muốn con thay đổi điều gì đó và có thể dạy con những điều gì mình muốn . Điều này cần được làm thường xuyên liên tục và lặp lại ít nhất 21 ngày

Chi đã áp dụng những điều được dạy để thực hành với con, có hành động đã thu được kết quả luôn nhưng có những thứ cần có thời gian mới có kết quả.

Chi viết “bài thu hoạch” như một lời cám ơn đến thầy #Ngô Thái Hà và cô #Thanh Thanh Lê vì đã rất nhiệt tình, tâm huyết chia sẻ những kiến thức bổ ích.
P/s: cô học trò có Wd và nhạy bén thính giác nên lượng kiến thức thu nạp chưa hết được những điều thầy cô đã truyền dạy, khi nào có lớp học này học trò lại tham gia tiếp tục.

Đỗ Thương Chi
17/8/2020

Thứ Năm, 25 tháng 6, 2020

MẸ VỀ ĐI ....




Tô Hà xin giới thiệu với Xóm Trian một bài thơ xúc động được Tô Hà lưu từ lâu nhưng mới tìm được tên tác giả. Đó là Đức Thắng (FB thang duc - bạn bè với Nguyễn Vũ Song Thu Xóm mình). Do bài không được chia sẻ nên Tô Hà copy lại.

Mời mọi người cùng đọc.


MẸ VỀ ĐI .....

Mẹ về đi .... sao còn vẫn ngồi đây ?
Chiều biên cương đang dần dần tắt nắng
Đồi hoa Sim cũng chìm vào hoang vắng
Tia nắng cuối ngày rải rác sườn non

Mẹ về đi ... đừng gọi mãi tên con
Như ngày xưa mỗi lần con tan học
Thời buổi chiến tranh muôn vàn khó nhọc
Mẹ vẫn cười .. ăn mau lớn đi con

Tháng năm qua đôi chân mẹ mỏi mòn
Bước thấp bước cao trên miền đất lạ
Mẹ có ngại chi bao điều vất vả
Tìm con về với mảnh đất quê hương

Mẹ về đi ..... đồi núi đã đầy sương
Manh áo mỏng chịu sao cơn gió lạnh
Nơi biên cương giờ đây không cô quạnh
Có bạn bè với đồng đội bên con

Trăng lên cao chiếu rọi cả đồi non
Soi sáng cả một bầu trời biên viễn
Giống như con ngày xưa khi mẹ tiễn
Thiệt dối lòng con gắt ..... Mẹ về đi !

Sài Gòn 21 - 7 - 2017
Đức Thắng 
(Viết cho ngày thương binh liệt sĩ 27/7)






Dưới đây là lời chia sẻ của Đức Thắng với Tô Hà:

       Bài thơ "Mẹ về đi" mình viết trong ngày giỗ của mẹ. Mình có người anh hy sinh trong chiến tranh chưa tìm thấy mộ. Bài thơ này mình đăng trong trang "Người nhà quê", nhiều người đồng cảm shaer về. Mình vui khi đứa con tinh thần được lan tỏa nhiều trên mạng.
      Có thời gian rảnh mẹ lại đi tìm con, toàn quá giang xe của bộ đội, ròng rã hơn hai mươi năm mà tìm không ra mộ con.
      Khi mẹ mất, lời trăn trối cuối cùng mẹ nói với mình "Con ráng tìm kiếm anh về với mẹ".
      Cũng tình cờ có một người đồng đội từng chôn cất anh trai khi họp mặt cựu SV trường ĐH Vinh nói ra thì gia đình mới biết.
      Mấy chị em trong SG tức tốc bay ra Huế.
      Điều đau lòng nhất là anh trai nằm sát đường bộ với đường xe lửa. Mẹ với mình đi qua đi lại khu vực đó nhiều lần tìm kiếm mà không ra.
Đã bao lần con thấy hình bóng mẹ
Áo nâu sồng đi thất thểu tìm con
Năm tháng trôi trên thân mẹ héo mòn
Mẹ cùng con tìm nhau trong hy vọng...

25/6/2020
Tô Hà - Sưu tầm, giới thiệu

Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2020

NHỚ NGÀY CHIẾN THẮNG 30/4

45 năm lãnh thổ Việt Nam liền một dải vẹn toàn.

1975. Tôi 20 tuổi.
Trong đoàn quân tiến về Sài Gòn năm ấy có rất nhiều bạn bè tôi một thời đi học. Họ là những chàng trai cô gái ưu tú, trong đó có người tôi yêu, có người yêu tôi. Họ đã in dấu chân mình vào trang sử đánh Mỹ của đân tộc.

45 năm nhớ lại tuổi 20 của mình ngày chiến thắng, nhiều người lính năm xưa còn thấy mình đang bay trong cờ sao rợp đất trời. Và họ nhớ lại những cảm xúc dâng trào trong khoảnh khắc lịch sử ấy.

Xin chia sẻ cùng mọi người dòng tốc ký của những người lính mà tôi được vinh hạnh học cùng trường Cấp III Chí Linh gần 50 năm trước.

NGÀY RA ĐI
(Tác giả: Nguyễn Văn Mơ - nguyên Đại tá Công an nhân dân Việt Nam, học sinh Khóa 3 Trường Cấp III Chí Linh Hải Dương).

Tháng Tư, Bảy lăm (4-1975)
Tấm bản đồ Miền Nam bên Hồ Gươm
Mỗi ngày thêm đỏ rực những lá cờ giải phóng.
Tin tức từ chiến trường nóng bỏng,
Đang dội về từng phút, từng giây.
Chúng tôi được lệnh ra đi gấp,
Không kịp chia tay,
Gia đình , bạn bè, người thương và Hà Nội.
Chỉ kịp chào những người gặp trên đường,
Xiết chặt tay đồng đội:
- Hẹn găp nhé, Sài Gòn !

Khoác vội lên người bộ quân phục màu xanh,
Khẩu súng, Ba lô và chiếc mũ tai bèo giải phóng.
Chúng tôi đi theo những đoàn quân ngày đêm Thần tốc,
Hướng về phía Sài Gòn, hối hả hành quân…

Ngày ấy ra đi có thể sẽ hi sinh,
Nhưng lòng tôi vững tin một niềm tin chiến thắng.
Đồng đội ở lại nhiều người rơi nước mắt.
Tôi vẫn cười tin tưởng ở tương lai.
Chúng tôi đi phơi phới Tuổi Hai mươi.

Rồi ngày ấy đi giữa phố phường giải phóng,
Sự thật rồi tôi cứ ngỡ trong mơ !
Sài Gòn – Thành phố Hồ Chí Minh đỏ thắm sắc cờ,
Độc Lập Tự do! Niềm vui sướng dâng trào trong khóe mắt.
Tôi muốn bay lên say sưa cùng tiếng hái:
- Sài gòn ơi ta đã về đây ! Ta đã về đây !
Hòa với muôn triệu con tim vang lên trên khắp đất trời,
- Như có Bác trong ngày vui Đại Thắng !


Sài gòn tháng 5. 1975

Nguyễn Văn Mơ
---


NGÀY NÀY 45 NĂM TRƯỚC Ở cT4/203

(Tác giả: Nguyễn Khắc Nguyệt - nguyên Đại tá Binh chủng Tăng Thiết Giáp, Hội viên Hội Nhà Văn Việt Nam, Học sinh Khóa 3 trường Cấp III Chí Linh, Hải Dương)


30.4.1975
Công binh khắc phục xong cầu Sông Buông thì đã quá nửa đêm, toàn lữ đoàn tiếp tục hành tiến. Đội hình chiến đấu của lữ đoàn đã được chấn chỉnh lại: dẫn đầu đội hình là Thê đội 1- chính là tiểu đoàn xe tăng chủ lực gồm 3 đại đội 1, 3 và 4; tiếp theo là Thê đội 2 gồm tiểu đoàn 4, tiểu đoàn 5 và các lực lượng bảo đảm; chúng tôi được lệnh bỏ qua những mục tiêu không quan trọng mà thọc sâu vào nội đô với thời gian nhanh nhất. Chiếc 380 thương tích đầy mình được xếp vào thê đội 2. Kể cũng buồn nhưng biết làm sao được, xe chỉ còn hai tên, vũ khí lại trục trặc không đánh nhau được thì phải đi sau chứ. Thế rồi tôi cũng không biết từ lúc nào và từ đâu ra mà hơn chục ông tướng bộ binh đã chễm chệ trên xe mình.

Gần sáng 30.4 các đơn vị đi đầu đã đến Ngã ba Tam Hiệp- nơi đường 51 gặp Xa lộ Biên hoà. Không thấy địch, chỉ thấy pháo súng từ bờ nam bắn sang. Trên cầu Đồng nai có 3 chiếc M113 dàn hàng ngang gần hết mặt cầu. Mấy xe đi đầu lập tức nổ súng, cả 3 chiếc bốc cháy dữ dội. Chúng tôi lách qua phần đưòng còn lại tiếp tục tiến theo xa lộ về hướng Sài gòn.

Vốn chỉ quen với những con đường nhỏ hẹp lúc đầu chúng tôi hơi "choáng" vì sự rộng rãi đến thênh thang của cái gọi là "xa lộ"; nhưng thật là tuyệt vời khi được nhấn ga không hạn chế trên cả 2 làn đường vắng teo; chúng tôi cán nát dưới hai băng xích quần áo, súng ống, giày mũ nhà binh rải rác trên đường.

Qua Tăng Nhơn Phú nhiều loạt đạn từ phía Trường Võ bị Thủ Đức bắn vào sườn trái đội hình. Mặc! Theo mệnh lệnh của trên chúng tôi tiếp tục nhấn ga lướt qua. Sau này theo tôi được biết- xe 707 của tiểu đoàn 5 đã tách ra khỏi đội hình đánh vào Trường võ bị Thủ đức; bọn địch trong trường phần bị diệt, phần sợ hãi tháo chạy nhưng xe 707 cũng đã hy sinh anh dũng ở ngay cổng trường.

Thật may là cầu Rạch Chiếc còn nguyên vẹn nên tốc độ tiến công của chúng tôi vẫn bảo đảm. Lúc đó thì chỉ biết thế là may- sau này chúng tôi mới biết để giữ cho cây cầu Rạch Chiếc được nguyên lành như vậy- hàng trăm chiến sĩ đặc công của ta đã anh dũng chiến đấu ở đó từ hôm trước và rất nhiều người trong số đó đã hy sinh.

Và thế là cầu Sài gòn đã ở ngay trước mặt! Tuy nhiên việc vượt qua nó không hề dễ dàng. Ngay ở chân cầu những chiếc thùng phuy và bao cát được dựng lên theo hình zíc- zắc chỉ để lọt 1 thân xe qua, phía sau những vật cản đó là những chiếc xe tăng mai phục; ngoài ra lợi dụng mặt cầu cong một số xe tăng địch mai phục ở phía sau, ở vị trí này chúng vừa giấu được mình vừa quan sát và phát huy hoả lực rất thuận lợi. Vì vậy chỉ sau mấy phút giao chiến 4 xe tăng ta đã bị bắn cháy, tiểu đoàn trưởng Ngô Văn Nhỡ hy sinh. Ngoài xe tăng, bọn địch còn cho máy bay đến ném bom và một số tàu ở dưới sông SG cũng bắn lên loạn xạ.

Với kinh nghiệm của những trận đánh trước- đại đội trưởng Thận lệnh cho các xe trong đại đội lợi dụng địa hình tại chỗ tiêu diệt các xe tăng dưới chân cầu và trên cầu. Vì tại chỗ bắn lại tập trung hoả lực nên xác xuất trúng rất cao, chỉ sau mấy phút hai chiếc M48 nấp sau vật cản đã bị bắn cháy, đạn trong xe nổ dữ dội, khói lửa mù trời; bọn trên cầu thấy vậy cũng bỏ chạy luôn. Một vài xe còn quay pháo ra sông bắn tàu địch. Chớp thời cơ toàn đại đội tăng tốc độ qua cầu dẫn đầu đội hình lữ đoàn nhằm hướng Dinh Độc lập. Và như mọi người đã biết- xe 843 và xe 390 của "xê 4" chúng tôi đã húc đổ cánh cổng Dinh Độc lập; đại đội trưởng Bùi Quang Thận đã thay mặt tất cả chúng tôi kéo lá cờ Giải phóng lên nóc dinh báo hiệu giờ toàn thắng của dân tộc. Tôi lao xe vào gần bồn nước trước cửa dinh rồi nhảy tâng tâng như con nít. Tôi và Thọ ôm chặt lấy nhau trong nghẹn ngào, xúc động. Thế rồi, Thọ bỏ tôi ra chạy vào dinh. Tôi cũng định trèo lên dinh xem nhưng ông Trị- bt hét: “Lái xe phải ở lại xe” nên chỉ mon men lên chỗ tiền sảnh lại quay về. Tôi xuống chỗ bồn nước rửa mặt và thất kinh vì nhìn thấy bộ dạng bẩn thỉu, rách rưới của mình. Giữa rất nhiều ống kính máy ảnh và ánh mắt của bà con, nam nữ thanh niên lúc này đã kéo tới ngoài hàng rào tôi xấu hổ quá chui vào ghế lái xe ngồi, lòng tràn đầy những cảm xúc trái chiều nhau. Vui sướng, tự hào, vinh dự nhưng cũng bồi hồi, đau xót. Nhìn cái lỗ trên nóc tháp pháo và những vệt máu vẫn còn vương trên vách buồng chiến đấu và sàn xe mà càng thêm thương xót Duyệt.

Cúi nhìn đồng hồ công- tơ- mét thấy con số 3100 km, trong đầu tôi chợt hình dung đến cuộc kháng chiến trường kỳ giành độc lập dân tộc và thống nhất đất nước của nhân dân ta như một cuộc trường chinh mà đây chính là “cây số cuối cùng”. Một tứ thơ vụt hiện trong đầu tôi. Tôi vội lấy cuốn sổ đã bị chém bởi vết đạn hôm 28.4 ra ghi vội:

Khi chiếc xe tăng dừng trước dinh Độc Lập
Ta ngỡ ngàng- Đây thật hay mơ?
Cây số cuối cùng- Cuộc trường chinh dằng dặc
Đến rồi chăng? Hai mắt bỗng dưng nhòa.

Và mắt tôi nhòa đi thật.

NKN

-------

Trân trọng chia sẻ.
Tô Hà

Thứ Hai, 18 tháng 9, 2017

LẠI NHỚ VỀ LƯU QUANG VŨ VÀ XUÂN QUỲNH

29-8-1988 ngày định mệnh và tang lễ vô cùng cảm động
Ngô Thảo

04:22' CH - Thứ hai, 29/08/2016
Cuối buổi chiều, sân 51 Trần Hưng Đạo - Trụ sở của 6, 7 Hội Văn học Nghệ thuật xôn xao, ồn ào rồi bàng hoàng khi nhận được tin: Cả nhà Lưu Quang Vũ chết hết rồi (do một tai nạn giao thông khi ôtô qua cầu Phú Lương).
12 giờ đêm, xe của Hội Nghệ sĩ Sân khấu Việt Nam đưa được thi hài 3 người từ Bệnh viện Hải Dương về đến Hà Nội. Ở cổng Bệnh viện Việt - Đức mấy trăm nghệ sĩ hơn chục đoàn sân khấu Hà Nội và bạn hữu đã khóc rầm rĩ suốt phố Phủ Doãn. Đêm hè, trời oi ngột, nhà xác bệnh viện Việt Đức trống trải khó chịu đựng được mấy ngày. Nhờ đạo diễn Đình Quang - Thứ trưởng Bộ Văn hóa liên hệ, 3 quan tài được chuyển về nhà xác Bệnh viện Hữu nghị Việt - Xô - nơi duy nhất có nhà lạnh chứa, ở đó họ có 3 ngày cuối cùng bên nhau nơi dương thế!
Thay quan tài là việc theo phong tục rất kiêng kỵ. Nhưng đạo diễn Hoàng Quân Tạo của Nhà hát kịch Hà Nội đại diện nhiều nghệ sĩ dứt khoát bằng giá nào cũng phải thay quan tài mới tử tế hơn.
Lại phát sinh vấn đề về thủ tục hành chính: Nơi an táng 3 người ba tiêu chuẩn: nhà thơ Xuân Quỳnh, Ủy viên Ban chấp hành Hội Nhà văn - được an táng Khu A Văn Điển. Còn Vũ chỉ mới cá sự ba. Và cháu Quỳnh Thơ có khu giành cho tuổi nhỏ.
May có mấy ngày chờ đợi, cả giới Sân Khấu đã cùng nhau chạy để cuối cùng đồng chí Trần Độ, Ủy viên TƯ Đảng, Trưởng ban Tuyên huấn TƯ quyết định để ba người có một suất mộ chung ở Khu A nghĩa trang Văn Điển. Có lẽ đến giờ, đây vẫn là khu mộ gia đình duy nhất ở nghĩa trang này.


Tang lễ 3 người tổ chức ở Trụ sở Trung ương Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật 51 Trần Hưng Đạo, không chỉ có các văn nghệ sĩ tất cả các hội đang có ở Hà Nội, nghệ sĩ các đơn vị sân khấu, các đoàn ở miền Bắc từ Đà Nẵng - quê Vũ trở ra, mà còn rất đông công chúng yêu mến, hâm mộ Lưu Quang Vũ, Xuân Quỳnh. Hai hội Nhà văn và Sân khấu đã phối hợp tổ chức một tang lễ trang nghiêm, xúc động và... hoành tráng!
Tổng thư ký Hội nhà văn Vũ Tú Nam đọc điếu văn cho Ủy viên Ban chấp hành Xuân Quỳnh. Nhưng Vũ chỉ là cán sự ba! Không chút phân vân, Nghệ sĩ nhân dân Dương Ngọc Đức chuẩn bị điếu văn cho Lưu Quang Vũ. Xử sự theo quy định hành chính thông thường chắc không ai dám chắc. Nhưng Tổng thư ký Dương Ngọc Đức là người lão thực. Ông hiểu tình cảm của giới Sân khấu, hiểu vị trí Lưu Quang Vũ trong sân khấu việt Nam. Bài điếu văn của Hội đã thể hiện sự đánh giá tức thời mà chuẩn xác về vị trí, đóng góp của Lưu Quang Vũ, không vì xúc động mà đề cao quá đáng, cũng không vì ấn tượng quá khứ, mà không thấy thành quả và tầm vóc thực sự của người vừa nằm xuống.
"Lưu Quang Vũ là người lao động lực lưỡng gồng trên đôi vai rộng khỏe của mình chương trình tiết mục hàng bốn năm mươi đơn vị nghệ thuật trên cả nước..." - hai mươi năm qua, những lời điếu văn viết vội ấy vẫn nguyên giá trị.


Hàng ngàn người Hà Nội đã tham dự tang lễ gia đình Quỳnh - Vũ. Có vòng hoa bạn bè cả nước và quốc tế. Theo phong tục, xe đưa quan tài qua nhà 96 Phố Huế đối diện chợ Hôm. Một cuộc tập hợp bất ngời của đông đảo tầng lớp công chúng với những tiếng gào thét tiếc thương làm tắc cả một quãng đường Phố Huế - Trần Nhân Tông. Chặng đường từ đó về Văn Điển đông nghẹt người đưa. Cho đến nay, đó vẫn là một đám tang lớn và xúc động ít thấy ở Hà Nội...
(Theo "Nhớ về Lưu Quang Vũ - những khoảnh khắc chợt hiện", Ngô Thảo)

Sau đây là 2 bài thơ cuối cùng Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh viết trong mùa hè năm 1988

THƯ VIẾT CHO QUỲNH TRÊN MÁY BAY
(Lưu Quang Vũ)

Có phải vì mười lăm năm yêu anh
Trái tim em đã mệt?
Cô gái bướng bỉnh
Cô gái hay cười ngày xưa
Mẹ của các con anh
Một tháng nay nằm viện

Chiếc giường trắng, vách tường cũng trắng
Một mình em với giấc ngủ chập chờn
Thương trái tim nhiều vất vả lo buồn
Trái tim lỡ yêu người trai phiêu bạt
Luôn mắc nợ những chuyến đi, những giấc
                  mơ điên rồ, những ngọn lửa không có thật
Vẫn là gã trai nông nổi của em
Người chồng đoảng của em
15 mùa hè chói lọi, 15 mùa đông dài

Người yêu ơi
Có nhịp tim nào buồn khổ vì anh?
Thôi đừng buồn nữa, đừng lo phiền
Rồi em sẽ khoẻ lên
Em phải khoẻ lên
Bởi ta còn rất nhiều dặm đường phải đi
Nhiều việc phải làm nhiều biển xa phải tới

Mùa hè náo động dưới kia
Tiếng ve trong vườn nắng
Và sau đê sông Hồng nước lớn
Đỏ phập phồng như một trái tim đau
Từ nơi xa anh vội về với em
Chiếc máy bay dọc sông Hồng
Hà Nội sau những đám mây
Anh dõi tìm: đâu giữa chấm xanh nào
Có căn phòng bệnh viện nơi em ở?

Trái tim anh trong ngực em rồi đó
Hãy giữ gìn cho anh
Đêm hãy mơ những giấc mớ lành
Ngày yên tĩnh như anh luôn ở cạnh
Ta chỉ mới bắt đầu những ngày đẹp nhất
Vở kịch lớn, bài thơ hay nhất
Dành cho em, chưa kịp viết tặng em
Tấm màn nhung đỏ thắm
Mới bắt đầu kéo lên
Những ngọn nến lung linh quanh giá nhạc
Bao nỗi khổ niềm yêu thành tiếng hát
Trái tim hãy vì anh mà khoẻ mạnh
Trái tim của mùa hè, tổ ấm chở che anh...
(7/5/1988)


THỜI GIAN TRẮNG
(Xuân Quỳnh)

Cửa bệnh viện, ngoài kia là quá khứ
Những vui buồn khao khát đã từng qua
Nào chỉ đâu những chuyện ngày thơ
Con đường gạch ao bèo hoa tím ngát
Những ô ăn quan, que chuyền, bài hát
Những mùa hè chân đất, tóc râu ngô
Quá khứ em không chỉ ngày xưa
Mà ngay cả hôm nay là quá khứ
Quá khứ của em ngoài cánh cửa
Gương mặt anh, gương mặt các con yêu...

Em ở đây không sớm không chiều
Thời gian trắng, không gian toàn màu trắng
Trái tim buồn sau lần áo mỏng
Từng đập vì anh vì những trang thơ
Trái tim nay mỗi phút mỗi giờ
Chỉ có đập cho em mình em đau đớn
Trái tim này chẳng còn có ích
Cho anh yêu, cho công việc, bạn bè
Khi cuộc đời trôi chảy ngoài kia
Thời gian trắng vẫn ngừng trong bệnh viện
Chăn màn trắng, nỗi lo và cái chết
Ngày với đêm có phân biệt gì đâu
Gương mặt người nhợt nhạt như nhau
Và quần áo một màu xanh ố cũ
Người ta khuyên “lúc này đừng suy nghĩ
Mà cũng đừng xúc động, lo âu”
Phía trước, phía sau, dưới đất, trên đầu
Dường trong suốt một màu vô tận trắng

Muốn gánh đỡ cho em phần mệt nhọc
Tới thăm em, rồi anh lại ra đi
Đôi mắt lo âu, lời âu yếm xẻ chia
Lúc anh đến, anh đi thành quá khứ
Anh thuộc về những người ngoài cánh cửa
Của con đường, trang viết, câu thơ
Mùa vải thiều lại tới mùa dưa
Mùa hoa phượng chắc rơi hồng mái phố
Đường cuốn bụi bờ đê tràn ngập gió
Những phố phường lầm lụi với lo toan.

Dù cùng một thời gian, cùng một không gian
Ngoài cánh cửa với em là quá khứ
Còn hiện tại của em là nỗi nhớ
Thời gian ơi sao không đổi sắc màu.
(6/1988)


Song Thu sưu tầm

Thứ Tư, 6 tháng 9, 2017

VĂN TẾ THẬP LOẠI QUAN THAM

(Kẻ hậu sinh cung kính lạy cụ Đồ Chiểu)


Hỡi ơi! Thuế nặng phí dày, lòng dân bải hoải.
Trăm năm công đánh giặc, chưa chắc mà nay ở ngôi cao,
Mấy đời móc túi dân, thân tuy béo tiếng tham như chó
Nhớ quân xưa:
Con cái nhà ai,
Ăn no dửng mỡ.
Quen thân nhung lụa, đâu biết lòng dân,
Chỉ biết chọi nhau, ở trong biệt phủ.
Việc hát, việc hò, việc đàn, việc đúm… thân vốn quen rồi,
Học ăn, học nói, học chữ, học nghề… mắt đâu thèm ngó.
Nghiệp ăn hại kết tinh từ kiếp trước, cha quan to thì mình tất quan to,
Mùi tham lam đã ngấm đến cao lâu, thích hối lộ như mèo hoang thích chuột.
Chỗ thấy đường xe đông như nước, muốn lập trạm thu;
Ngày xem ngân sách cạn như chùi, muốn nâng thuế VAT.
Một mối lợi danh ngồn ngộn, há để ai cướp mất của ai,
Hai tầng quyền lực ngút trời, đâu dung lũ dân đen khốn khó.
Nào sợ ai đòi, ai bắt? phen này xin thỏa sức tung hoành,
Chẳng thèm biết ngượng, biết ghê, chuyến này quyết ra tay vơ vét.
Khá ngon thay:
Vốn chẳng phải quan to, quan nhỏ, khối thằng theo đóm được an tàn,
Chẳng qua là con bạc, con buôn, quan hệ tốt thiếu gì dự án.
Mười tám môn hối lộ, nào biệt thự, nào nhà,
Chín chục triệu dân đen, cứ tha hồ móc túi.
Ngoài cật đã có tờ quyết định, nào đợi dân kịp trở tay,
Trong xe chồng một đống hồ sơ, đâu cần đến lương tri, công lý.
Cửa quan đã đẻ ra cơ chế, liền sinh ra nhóm nọ nhóm kia,
Nhân danh người nhà tướng, nhà quan, chả cần vốn cũng tay không bắt giặc.
Chi nhọc thương thảo với giá này, giá nọ, lấn vườn, cướp ruộng, coi giặc cũng như dân,
Nào sợ thằng Vươn bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, dễ dàng như tập trận.
Kẻ dùi cui, người roi điện, làm cho dân lành, con nít hồn kinh,
Bọn hè trước, lũ ó sau, thương thay lão già gãy cẳng.
Tấm gương đạo đức đâu rồi?
Ai biết tính người vội bỏ.
Một kiếp quan trường rằng chữ lợi, ai hay quả báo nhãn tiền,
Trăm năm địa ngục ấy chữ nguy, nào đợi nhân nào quả nấy.
Núi sông mờ mịt, mà cỏ cây mấy dặm sầu giăng;
Thiên hạ thái bình, để già trẻ hai hàng lệ nhỏ.
Bên ngoài giặc cướp, Hán gian ùa tới, mà biển khơi đã chết còn dày đặc âm binh,
Bên trong quan tham, giữ ghế hành dân, mà hiệu lực nhất nhất theo kim tiền chỉ đạo.
Nhưng nghĩ rằng:
Tấc đất ngọn rau ơn xương máu, tài bồi cho cả nước nhà ta,
Bát cơm manh áo sống ở đời, tối mắt mấy đời cha con nó.
Vì ai khiến dân đen khốn khổ, thuế phí chồng nhau,
Vì ai xui vườn ruộng tan tành, động mồ động mả?
Sống làm quan tham lam vô đạo, quăng vùa hương, xô bàn độc, thấy lại thêm buồn,
Chết làm ma ở chốn cửu tuyền, ngửi phân lợn, uống nước đồng, nghe càng thêm hổ.
Thà chưa thác mà đặng lòng sám hối, ăn năn may tổ phụ còn vinh;
Hơn sống dai mà chịu chữ cẩu quan, ở với nhân dân cũng ngượng.
Thôi đi thôi!
Đường quan lộ, năm năm ư một khóa, có tham lam cũng lưu lại chút tình,
Nẻo công danh, một kiếp đặng một lần, cẩn thận kẻo sa phải vòng lao lý.
Đau đớn bấy! người tình ngồi tiếc của, Buổi vàng son sung sướng đâu rồi,
Não nùng thay! vợ trẻ chạy nuôi chồng, con xế cũ đậu ngoài song sắt.
Ôi!
Một khóa quan tham;
Nghìn năm nhục nhã.
Giặc cướp vẫn giăng đầy đâu đó, ai làm cho bốn phía mây đen,
Ông cha ta còn gửi cốt nơi đây, ai cứu đặng mấy phường con đỏ.
Sống mà cả nước non đều hận, oan gia đầy, muôn vạn kiếp còn theo,
Thác đừng trông đền miếu để thờ, tiếng gian trải muôn đời ai cũng chửi.
Sống tạo nghiệp, thác thì trả nghiệp, linh hồn theo ám cháu con, muôn kiếp không ngóc đầu lên được,
Sống thờ giặc, thác phải thờ ma, lời Phật dạy đã rành rành, một chữ “đọa” đủ mà cảnh tỉnh.
Hỡi ơi!
Nước mắt dân lành lau chẳng ráo, thương vì hai chữ dân oan,
Cây hương liệt sĩ thắp nên thơm, cám bởi một câu bội nghĩa.
May ra thì hưởng!

Phạm Lưu Vũ
Tạ Anh Ngôi - Sưu tầm

Thứ Ba, 8 tháng 8, 2017

10 tinh hoa trí tuệ lưu truyền ngàn năm của ‘thủy tổ Đạo giáo’ – Lão Tử

 
Những cống hiến và vai trò của Đạo gia trong văn hóa truyền thống là ngang hàng với Nho gia và Thích gia. Ngoài ra, tính biện chứng và độ thâm hậu của Đạo gia được xem là “nguồn cung cấp nước” cho sức sáng tạo ra những tư tưởng triết học khác của cổ nhân. Đó cũng chính là những tinh hoa mà thủy tổ của Đạo gia – Lão Tử đã để lại cho hậu thế và được lưu truyền xuyên suốt hàng ngàn năm qua.
 
Lão Tử dùng “Đạo” để giải thích về sự phát triển biến hóa của vạn vật trong vũ trụ. Ông cho rằng: “Đạo sinh nhất, Nhất sinh nhị, Nhị sinh tam, tam sinh vạn vật. Phù mạc chi mệnh, nhi thường tự nhiên.” Cho nên: “Nhân pháp địa, địa pháp thiên, thiên pháp đạo, đạo pháp tự nhiên” (Tạm dịch: Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên). Đạo là quy luật tự nhiên khách quan, đồng thời lại sẵn có ý nghĩa: “Độc lập bất cải, chu hành nhi bất đãi” (Tạm dịch: Đứng một mình mà chẳng thay; đi khắp nơi mà không mỏi).
Trong các cuốn sách của Lão Tử, bao gồm rất nhiều những quan điểm biện chứng: Tất cả mọi sự vật đều là có hai mặt chính và phản, cũng có thể do đối lập mà chuyển hóa như: “Thiện phục yêu”, “trong họa có phúc, trong phúc có họa”. Đồng thời trong thế gian còn có “hữu” (có) và “vô” (không) cùng ở trong một thể thống nhất như câu: “Dân bất úy tử, nại hà dĩ tử cụ chi?” (Tạm dịch: Khi dân không sợ chết, sao lấy cái chết làm cho họ sợ được?)

Dưới đây là 10 tinh hoa lưu truyền ngàn năm của Lão Tử:
1. Biết thế nào là đủ thì sẽ vĩnh viễn không thiếu gì
Lão Tử viết: “Tri túc chi túc, hằng túc hĩ”. Nghĩa là biết thế nào là đủ thì sẽ vĩnh viễn không thiếu gì. Trái lại, một người mà không biết đủ thì sẽ luôn luôn cảm thấy thiếu thốn.
Một người thiện tâm có thể không có nhiều của cải, tài sản, xe hơi hay tiền tiết kiệm, nhưng anh ta biết thế nào là đủ thì sẽ vui hưởng một cuộc sống hạnh phúc.

2. Đạo của thánh nhân: Làm mà không tranh giành
Lão Tử viết: “Thánh nhân chi đạo vi nhi bất tranh. Phu duy bất tranh, cố thiên hạ mạc năng dữ chi tranh.” Tức là Đạo của bậc thánh nhân chỉ làm việc chứ không tranh giành. Vì không tranh giành, cho nên thiên hạ không ai tranh giành với mình. Lão Tử viết: Nguyên tắc làm việc của người lãnh đạo là làm mà không tranh đoạt. Chính vì không tranh đoạt cho nên thiên hạ cũng không có ai tới tranh đoạt với mình.
Cũng giống như Lão Tử viết: “Thượng thiện nhược thủy. Thủy thiện lợi vạn vật nhi bất tranh, xử chúng nhân chi sở ác, cố kỷ vu đạo.” (Là có ý nói: Cảnh giới cao nhất của thiện hạnh là giống như đặc tính của nước. Nước không tranh giành lợi với vạn vật, nằm ở nơi mọi người không chú ý, cho nên nước là gần với Đạo nhất).
Người không tranh giành, ngược lại, lại thắng được người khác là bởi vì mỗi việc làm của họ đều là phù hợp với bản tính con người, lợi người chứ không hại người.

3. Biết lúc nào nên dừng thì không nguy mà có thể sống lâu.
Lão Tử viết: “Tri chỉ khả dĩ bất đãi.” Ý tứ chính là một người mà biết dừng lại đúng lúc thì có thể không bị nguy hiểm.
Lão Tử viết: Biết dừng lại đúng lúc thì có thể không lâm vào tình cảnh nguy hiểm. Bởi vì không đạt đến mức cuối cùng cho nên có thể tái sinh. Sự vật gì khi đạt đến mức cuối cùng thì đều sẽ đi về xu hướng suy yếu tử vong.

4. Biết người là trí, biết mình là minh
Lão Tử giảng: “Tri nhân giả trí, tự tri giả minh. Thắng nhân giả hữu lực, tự thắng giả cường.” Tức là, kẻ biết người được gọi là trí, tự biết mình được gọi là minh. Thắng người là người có sức mạnh, thắng mình là người mạnh.
Một người thành công phải tự biết mình và thắng được bản thân mình. Một người quản lý nếu như thiếu khả năng này sẽ rất khó để quản lý hữu hiệu.

5. Không làm gì mà không gì là không làm
 Lão Tử giảng: “Vô vi nhi vô bất vi”, không làm gì mà không gì là không làm. Lão Tử viết: Không trái với quy luật, thì không gì là không thể làm được. Lão Tử còn viết: ‘Thượng sĩ nghe Đạo cần nhi hành chi” ý nói, bậc thượng sĩ nghe Đạo liền nỗ lực thực hành theo.
Rốt cuộc, Lão Tử muốn khuyên rằng cần nắm chắc quy luật và dùng nó để chỉ đạo thực tế mà không phải là nói suông. Lão Tử cũng viết rằng: Người thuận theo Đất, Đất thuận theo Trời, Trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên. Vô vi, cuối cùng chính là tuân theo quy luật tự nhiên để làm việc, cũng chính là thuận theo tự nhiên.

6. Nói nhiều cũng chẳng hết, thà giữ lấy Trung
Lão Tử giảng: “Đa ngôn sổ cùng, bất như thủ trung.” Càng nói nhiều, càng không sao nói hết được, thà là giữ lấy cái Trung.
Lão Tử viết rằng, nói nhiều thì 5 lần 7 lượt sẽ gặp lúc lúng túng không nói gì, chẳng thà tuân thủ đạo trung dung (trung là không ngả về một thái cực nào, dung là dung hòa, thích hợp với hoàn cảnh). Đặc biệt là lời nói suông, trống rỗng thì càng không nên nói.

7. Con người khi mới sinh thì mềm mại, mà khi chết thì cứng ngạnh.
Lão Tử viết: “Nhân chi sinh dã nhu nhược, kỳ tử giả kiên cường.” Con người khi mới sinh thì ai cũng mềm yếu, mà khi chết thì cứng ngạnh.
Lão Tử cũng viết: Vạn vật cây cỏ mới sinh thì mềm dịu, mà khi chết thì khô héo. Bởi vậy, cứng và mạnh là bạn của chết, mềm và yếu là bạn của sự sống.
Cho nên binh mạnh thì không thắng, cây cứng thì ắt sẽ dễ bị gãy. Cứng và mạnh ở bậc dưới còn mềm và yếu là ở bậc trên, cũng giống như “lấy nhu khắc cương”, “lấy mềm mại nhu hòa thắng cứng ngạnh”.

8. Lấy ngay thẳng trị nước, lấy biến hóa dùng binh, lấy vô sự được thiên hạ.
 Lão Tử giảng: “Dĩ chính trì quốc, dĩ kỳ dụng binh, dĩ vô sự thủ thiên hạ”, chính là đạo lấy ngay thẳng để trị nước, lấy biến hoá để dùng binh, lấy vô sự được thiên hạ.
Theo tư tưởng của Lão Tử: Thiên hạ càng nhiều kỵ húy, thì dân càng nghèo. Dân càng lắm lợi khí, thì quốc gia càng tối tăm. Dân càng tài khéo, vật lạ càng nẩy sinh, pháp lệnh càng rõ rệt, trộm cướp càng sinh ra nhiều. Ta vô vi mà dân tự hóa. Ta ưa tĩnh mà dân tự chính. Ta không làm mà dân giàu. Ta không có dục vọng mà dân tự động trở nên chất phác.

9. Giỏi dùng người là biết hạ mình dưới người
Lão Tử giảng: “Thiện dụng nhân giả vi chi hạ”, tức là người giỏi dùng người là người phải biết hạ mình ở dưới người.
Lão Tử cũng viết rằng: Người lãnh đạo giỏi dùng người là phải đặt mình ở dưới người. Còn nếu như chỉ cân nhắc tư lợi cho bản thân mình, không tôn trọng người khác, không thiện với người làm cho mình thì chính là đang đặt mình ở “vị thế cao”.
Người mà một khi đã đặt mình ở vị thế cao, người khác ở vị thế thấp thì sao có thể lấy được lòng người?

10. Trị người thờ trời, không gì bằng tiết độ.
Lão Tử giảng: “Trì nhân sự thiên mạc nhược sắc.” Theo Lão Tử, việc quản lý thống trị dân chúng là có liên quan mật thiết với Trời và Đất. Biện pháp tốt nhất chính là không gì bằng nông canh. Cũng chính là nói đến việc phải thuận theo quy luật sinh trưởng và thu hoạch của cây trồng, đừng cưỡng ép nó. Thuận theo yêu cầu cần phát triển của nó mà chăm sóc, tưới nước cho nó. Làm được như vậy thì cây trồng tất nhiên sẽ phát triển tốt và cho mùa màng bội thu.
Tương tự như vậy, người cai trị khi dẫn dắt dân chúng hoàn thành đại nghiệp cũng phải thuận theo nguyên tắc thì mới có thể thu được thành quả to lớn.
An Hòa (biên dịch theo sự cho phép của tác giả)

(Nguồn Trí thức vn)

Đỗ Đình Tuân sưu tầm

Chuyện về ước nguyện cuối cùng của liệt sỹ có tên là HIỂN.





(Nguyễn Thị Tiến, bạn cùng học một lớp với tôi trong Đại học sư phạm. Sau khi ra trường, bạn vào dạy tại trường Cao Đẳng Sư Phạm Đà Lạt. Rồi trời xui đất khiến thế nào, bạn lại chuyển về công tác tại Bảo tàng QK4. Tại đây, bạn phụ trách công việc tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ. Tuy chân yếu tay mềm nhưng bạn lại rất xông xáo và có thể nói là dũng cảm, kiên cường, tận tụy nữa khi cùng các trang nam nhi thực hiện nhiệm vụ của mình. Bạn đã thật sự có công trong lĩnh vực này. Vì thế, bạn đã có mặt trong chương trình Người đương thời. Bạn còn viết và xuất bản một cuốn sách kể về quá trình quy tập này. Những mẩu chuyện giản dị, chân thực mà xúc động vô cùng. 
Hôm nay, bạn lại gửi vào trang faceboook của tôi câu chuyện nhỏ này . Tôi tải sang đây, mời anh, chị, em và bạn bè blog cùng đọc ạ.)
Dưới đây là ảnh và bài viết của bạn tôi cùng bài thơ của anh Nguyễn Trọng Luân:

Tôi và chị đi tìm mộ bạn của chị đã hi sinh tại chiến trường Lào.
Sang Lào. Có hai từ thôi nhưng là cả một chặng đường gian nan vất vả, thế mà chị Nga vẫn đi. Chân chị bị đau, chị phải ngồi lại bên gốc cây một nhánh suối...còn 3 người nữa hành quân vào nơi có trạm phẫu ngày xưa.
Sau trạm phẫu bao giờ cũng có một nghĩa trang..
Kết quả đến nơi chỉ có những huyệt mộ đã đào, cỏ mọc lan đầy.
Về nước, chị gọi tôi từ Vinh ra, hai chị em tìm tung tích về binh trạm, chị em tôi tìm được chị Bình, bây giờ chị bán hột vịt ở gần Cồn ngựa. Chị Bình cho biết có anh Hùng đang mưu sinh trong một quán nhỏ ven đường Láng, chị em tôi tìm đến bác Hùng quân y binh trạm, trời chiều muộn.
Hỏi bác, bác kể biết bao nhiêu câu chuyện về các thương binh đã hi sinh ở đó. Lúc đầu chị em hỏi tin LS Giáp, cuối cùng thì nghe những liệt sỹ khác nhiều hơn, cuốn theo dòng kể của bác Hùng. Chuyện đi tìm và tìm ra nơi mai táng cuối của liệt sỹ Giáp tại nghĩa trang Quốc gia đường 9 quả là một hành trình gian nan. LS Giáp nằm chung với các liệt sỹ khác, chưa biết tên (sau chị em tôi vào xin đào mộ lấy mẫu tìm phả hệ bằng GEN Di truyền và đã thành công) tôi sẽ kể lại chi tiết câu chuyện của chị Nga đi tìm mộ bạn .
Trở lại với câu chuyện của bác sĩ Hùng ccb binh trạm, bác nhờ chúng tôi cố tìm xem ai có liệt sỹ tên là Hiển đã hi sinh tại binh trạm, bác kể trong nước mắt:
Khổ, anh Hiển bị thương nặng lắm,chúng tôi đã cố gắng hết sức, trạm phẫu thiếu thốn đủ thứ. Với nghề nghiệp, tôi biết anh sẽ không qua khỏi, thương lắm.
Anh nói với tôi, anh vào bộ đội chưa biết yêu. Chưa có bạn gái nào nhớ anh ấy, anh ấy ao ước được trở về để yêu và lấy vợ, sinh con, anh không muốn chết ở đây.
Anh nói: ở đây có phụ nữ, bác sĩ cho tôi được hôn ai đó là phụ nữ, tôi chỉ mong có vậy trước khi tôi chết.
Mọi người nhìn nhau nén lặng, tôi nhìn 4 chị trong trạm phẫu, các chị cũng chỉ trạc 22 tuổi thôi, anh Hùng bảo có cả chị Bình đây (anh chỉ tay vào chị Bình, chị Bình khóc gật gật)
Cả 4 chị xếp hàng lặng lẽ cúi xuống ôm và hôn anh Hiển, tôi cũng ôm anh ấy hôn lên đôi mắt đã khép mà miệng anh vẫn nở nụ cười.
Chúng tôi mai táng anh, anh vẫn như cười...
........
Hôm nay đọc tập thơ: "mây trên trời Quảng Trị" của nguyễn Trọng Luân. Tôi gặp lại khuôn mặt của liệt sỹ Hiển trong câu chuyện của ccb bác sĩ Hùng.
Muốn các bạn hiểu thêm về ước mơ của người lính .
Tôi đã khóc, khóc nhiều khi viết vắn tắt câu chuyện này, khi đọc thơ của Nguyễn Trọng Luân, Cảm ơn nhà thơ đã thay lời muốn nói.
Dưới đây là bài thơ đã làm tim mình nhức nhối khi nghĩ về những người lính yêu thương không về.
Nguyễn Thị Tiến

Chi Nga Viet và Nguyễn Trọng cho phép tôi đưa tên hai người chính kiến mà tôi chưa xin phép.

NGỠ LÀ YÊU.

Ngỡ là yêu
Ngỡ là em
Ngỡ là
Một thuở
Trường Sơn lại về
Giá mà
Cái buổi anh đi
Có cô gái 
Hẹn ngày về 
Đón anh
Để trong biêng biếc 
rừng xanh
Dẫu bom đạn 
Vẫn nhớ hình bóng ai
Ngỡ mình
Là một
Thành hai
Trường Sơn
Thương nhớ
Của vài 
Trường sơn
Những chàng trai
Vẫn còn "son"
Giả thư con gái 
giả hồn đang yêu
Ngỡ như 
người vẫn trông theo
Ngỡ như 
mình có người yêu 
nhớ mình
Ngỡ như 
rồi có hy sinh
Có người
Con gái 
khóc mình đêm đêm
Ngỡ là yêu
Ngỡ là em
Giũa Trường sơn 
cứ đêm đêm 
ngỡ là....

Nguyễn Trọng

(Song Thu sưu tầm)

Thứ Năm, 3 tháng 8, 2017

Pu tin thời trẻ...

Loạt ảnh hiếm về Tổng thống Putin thời trẻ
Những bức ảnh hé lộ cuộc sống thời trai trẻ của ông Putin trước khi trở thành người quyền lực nhất nước Nga.

Putin cùng cấp dưới đi ăn kem / Putin 'rất hài lòng' khi trò chuyện với Melania Trump tại G20


Ông Vladimir Putin sinh ngày 7/10/1952 tại thành phố Saint Petersburg, trước kia là Leningrad. Ông là con một trong gia đình có bố là công nhân nhà máy còn mẹ là một phụ nữ nội trợ điển hình.


Bức ảnh này được chụp năm 1970, khi Putin đang theo học Luật quốc tế tại Đại học Tổng hợp Quốc gia Leningrad.


Chàng sinh viên Vladimir Putin là người yêu thích thể thao. Ông đã từng vô địch trong cuộc thi đấu Judo của thành phố Leningrad.

Sau khi tốt nghiệp đại học vào năm 1975, ông được tuyển vào cơ quan tình báo KGB. Đầu những năm 1980, ông Putin bắt đầu hẹn hò với người vợ tương lai của mình, bà Lyudmila, một tiếp viên hàng không.


Hai người kết hôn vào năm 1984. Sau này trong cuốn sách "Vladimir Putin: Con đường đến với quyền lực" phát hành năm 2002, bà Lyudmila Putin đã viết rằng Tổng thống Nga là một người ít nói, mạnh mẽ và thường xuyên trễ hẹn. Bà cũng thừa nhận ngưỡng mộ "phẩm chất đàn ông thực thụ" trong con người ông Putin, nhưng phải mất rất nhiều thời gian mới quen với bản tính trầm lặng và sự mạnh mẽ, quyết đoán của ông.


Ông Putin chụp ảnh cùng cha mẹ trước khi được KGB phái sang Cộng hòa Dân chủ Đức với danh nghĩa công khai là chủ tịch Hiệp hội Hữu nghị Liên Xô - Đức, còn chức danh thực tế là cố vấn quân sự của KGB tại tổ chức tình báo của Đông Đức đặt ở Dresden.


Ông Putin vui đùa cùng hai con gái. Bà Lyudmila sinh con gái đầu lòng, đặt tên là Maria, vào năm 1985. Sau đó một năm, khi cả gia đình đã chuyển tới Dresden, Đông Đức, vợ chồng ông Putin chào đón cô con gái thứ hai, Katya.

Bức ảnh gia đình chụp năm 1990, trước khi ông Putin trở về Leningrad. Vào tháng 6/1991, ông Putin giữ chức phó thị trưởng thành phố Leningrad, khởi đầu sự nghiệp chính trị của mình cho đến khi trở thành Tổng thống Nga vào ngày 31/12/1999.

An Hồng (Ảnh: Zuma Press)
Nguồn: vnExpress

Đỗ Đình Tuân (Sưu Tầm)

Chủ Nhật, 23 tháng 7, 2017

VĂN CỦA LÍNH



(Lang thang trên mạng, tôi gặp bài viết này trên trang faceboook của bạn tôi. Càng đọc càng cảm thấy thú vị vì hình ảnh người lính cũng như tình đồng đội của họ. Và nhất là thấy chất văn của lính nó mộc mạc giản dị vô cùng mà lại có sức lay động tâm can ta đến lạ. Tôi bồi hồi nhớ lại những bức thư của bạn tôi gửi cho tôi thời chống Mỹ và lại bập bõm nhớ đến lời của một bài hát:
" Thư của lính không hương nồng nàn không nét thơ đa tình...Thư của lính ba lô làm bàn nên nét viết không ngay...Nhưng thư của lính thư viết giữa rừng cây lúc nhớ em thật đầy..."
Nhân dịp kỉ niệm 70 năm ngày thương binh liệt sĩ, tôi xin đăng bài viết này lên mời anh, chị, em và bạn bè blog đọc để thưởng thức thêm chất văn của lính và hiểu thêm về hình ảnh người lính cũng như tình đồng đội nói riêng và tình cảm cao đẹp của họ với cuộc đời, con người và nghệ thuật nha)

THỜI TRAI TRẺ HÀO HOA.
**************
Tôi và Khuất Duy Hoan- lính d76

Bây giờ già rồi nghĩ lại thấy bao nhiêu điều cần cám ơn số phận. Số phận cho mình vui buồn khổ ải và cũng có lúc vinh quang. Đời chả ai qua được chữ may mắn. Mình chả giỏi hơn được ai chỉ là nhờ may mắn mà còn đến bây giờ, còn lại nguyên là mình chứ bao đồng đội giỏi giang hơn mình họ lại chết trẻ quá. Tôi và Hoan là thế. Cũng như bạn bè còn lại ở lứa cùng nhập ngũ với nhau hồi d76 đều may mắn mà thôi.
Gặp nhau trưa nắng 15/9/1972 ở rừng cọ Phú Lương. Áo quần học trò thay ra khoác vào bộ quân phục thùng thình nhìn nhau cười. Nụ cười thằng nào cũng có nước mắt. Tôi nhìn thấy Hoan cao lêu nghêu da trắng môi đỏ và răng khểnh. Cảm tình đầu tiên là nó không gọi bạn bè là mày tao. Nó ăn nói rất chi mô phạm. Cái cười của nó rất hiền. Mỗi khi cười là như có điều muốn nói với mình. Tối hôm ấy về đại đội ở Thượng Đình Phú Bình hai thằng lại vào cùng trung đội. Từ ấy suốt 4 năm sau chúng tôi ở cùng nhau cho đến lúc tôi ra bắc nó còn ở lại quân đội và đi hết cuộc đời vẫn làm bộ đội. 
Thời chúng tôi, đời bộ đội thì chỉ có việc là đi đánh nhau. Ấy thế mà cũng có lúc chúng tôi làm VĂN NGHỆ. Sự văn nghệ của chúng tôi ai oán lắm. Quân đội ta tài thật đấy, họ động viên lính tráng giỏi ơi là giỏi. Ai chưa từng ở chiến trường thì không thể hiểu một bài hát, hay một vở chèo, một màn tấu vui ở rừng nó có tác dụng lớn lao với người lính sắp xuất kích đến cỡ nào. Ba mùa mưa ở Tây Nguyên là ba mùa chúng tôi cùng viết bài hát cùng dựng hoạt cảnh chèo để diễn cho nhau xem. Diễn xong ngày mai lại đi vào trận. Sau mùa mưa lại vài thằng chết lại nhặt thằng khác làm diễn viên. Diễn viên và khán giả toàn cùng đại đội tiểu đoàn với nhau, biết thừa tiếng súng của nhau nên đồng cảm lắm. Có một điều đặc biệt, thằng nào làm văn nghệ mà hèn nhát đồng đội nó không nghe, thằng nào lên hát trước anh em là phải là thằng phải tự tin về bản lĩnh chiến trận của mình. Tôi và Hoan chả bao giờ e ngại vì chúng tôi đều là A trưởng cứng ở đơn vị.
Khổ lắm, nghĩ lại thấy sự hẹp hòi từ xa xưa của loài người đã có rồi. Cứ đi văn nghệ một tháng về là mọi thứ làm lại từ đầu. Cảm tình đảng thì lại phấn đấu cảm tình lần nữa. Nhưng bản năng trong máu là lạc quan không sợ khổ thì nó lại cứ hiện lên. Bao nhiêu lần hành quân chiến dịch hay cả khi tăng gia làm nương tự túc ở Tây nguyên tôi viết bài hát cho Hoan hát . Tôi làm thơ Hoan thuộc trước rồi ngâm thơ tôi cho tôi nghe. Nằm ôm nhau dưới hầm nghe nó hát mà thấy mình cũng đáng sống.
*****
Mùa mưa năm 1974. Sau trận đánh đồi CỦ LẠC. Một hôm nó cho tôi xem chiến lợi phẩm. Một cái khăn quàng nữ móc bằng sợi chỉ và nhuôm tím bằng thuốc pháo sáng. Tôi nhớ lúc ấy nó nâng niu cái khăn và nói:
- Nếu ngày hòa bình còn sông mà được ra bắc, qua cầu Bến Hải người phụ nữ đầu tiên tao gặp sẽ là người tao tặng cái khăn này.
Cuộc chiến ác liệt suốt đến ngày hòa bình ba lô của Hoan không còn. Nhiều thứ kỉ niệm không còn nữa nhưng với tôi ánh mắt của nó và giọng nói chìm trong mưa hôm ấy thì còn mãi đến bây giờ. Người như nó không thể làm điều ác. Người như nó dũng cảm bao nhiêu thì cũng dễ khóc bấy nhiêu.
Đẹp trai hào hoa và chiến công đầy mình mà nó cứ bẽn lẽn như con gái khi tiến vào Sài Gòn. Đêm đầu tiên ở Sài Gòn nó ở gần tôi bên khu đại học Kiến Trúc. Bao nhiêu cô gái thích nó. Bao nhiêu của nả nó chả nhặt cái gì. Nó mang về Củ Chi tặng tôi một cái an bum nhấp nháy mặc dù tôi cũng có rồi. 
Những ngày sống ở Đồng Dù tôi với nó ngủ kề với nhau trên đội Tuyên văn Sư đoàn. Nhắc lại chuyện một mình nó đóng hai vai chèo nó lại khóc. Chiều chiều hai thằng ngồi ở chân cột cờ Tổng hành dinh sư đoàn 25 TIA CHỚP NHIỆT ĐỚI nhìn núi Bà Đen mơ ngày về miền bắc đi học tiếp. Tôi ra bắc cuối tháng 10 năm 1975. Nó ở lại đơn vị. Nó viết thư cho tôi
“ Mày lên xe rồi tao chạy về phòng đóng cửa và khóc một mình, tao khổ sở mỗi khi nhìn những dòng chữ viết của mày trên cánh cửa Luân ơi..”
Chúng tôi đổi võng cho nhau. Nó dùng võng tôi, tôi mang võng của nó ra bắc. Gần nửa thế kỉ rồi tôi vẫn nhớ ở góc võng nó viết bằng bút bi “ Duy Hoan”. 
***
Cuộc chiến tranh bắt buộc đưa nó và bao đứa bạn tôi sang Thốt nốt. Từ tháng 10/1977 đến 6/1979 nó đánh nhau ngót trăm trận. Cuối năm 1979 nó về Hà nội tìm tôi. Nó là quyền Trung đoàn trưởng 64 f320. Cái xe dép đỏ ngầu bụi và nó cũng ngầu sương ngầu gió. Hai thằng ôm nhau và lại ngủ với nhau đêm Hà nội đói meo với cuộc sống học viên chính trị của tôi. 
45 năm nay chúng tôi là bạn của nhau cũng như thằng Sỹ thằng Thịnh thằng Tiêu thằng Dương, chúng tôi vẫn mày tao và hiểu nhau tơ tóc. Nó làm Phó Tư lệnh quân đoàn thằng Sỹ làm Viện trưởng, thằng Tiêu làm Giám đốc Sở , thằng Thịnh làm phó ban TC đại học. Thằng Dương và tôi giám đốc Xí nghiệp bé bằng ngon tay, Ồn ào vẫn chỉ tao mày. Ở Hà nội chỉ độ 3 tuần không gặp nhau là thấy lâu lắm. Gặp nhau rồi uống bia nhậu bằng khuôn mặt nhau để thấy mình lại là mình. 
Chúng tôi là lính d76.
Luân và Hoan đi về chiến trường xưa

22-7-2017
( Song Thu sưu tầm)