Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Hai, 17 tháng 4, 2023

NHỮNG NGƯỜI ĐÀN BÀ THÁNG 4/1975

 

     Gần nửa thế kỉ nay, nhiều người viết về lứa trẻ sinh ra dịp b mươi tháng tư, lứa cán bộ trưởng thành từ ba mươi tháng tư, những người lính ba mươi tháng tư… nay ở đâu? Nhưng những người con gái ba mươi tháng tư thì tôi để ý, chả thấy người ta viết, hay họ viết mà tôi không biết.
     Những người đàn bà dưới đây tôi gặp họ vào những ngày tháng 4 năm 75 rồi từ ấy đến nay không bao giờ gặp lại. Tôi gọi họ là “những người đàn bà tháng tư 75 “.
    1 Cô biệt động Mỹ Hạnh.
     Hạnh quê ỏ Tân Phú Trung, Củ Chi. Cho tận tới tối 28/4 trước giờ hành quân tôi mới gặp Hạnh. Chiều ấy nắng đã tàn mà trời vẫn hồng rực lên. Lúc ấy chúng tôi ở An Nhơn Tây, dàn đội hình hành quân mà vẫn thấy lửa sáng phía tay phải đội hình. Có một cô gaí người lẳn như cú khoai sọ đeo AK báng gấp bảo, chỗ sáng đó là Đồng Dù. Ai cũng nhìn sang cô gái có cái bồng bằng vải ni lông sáng màu cổ vịt. A phó Ngô Thịnh hỏi, này cô đi đâu đấy? Cô gái trả lời. Tôi gặp anh Nguyễn Trọng Luân và cùng đi dẫn đường cho tiểu đòan 8 đánh Ấp Chợ - Cầu Bông. Tiểu đội trinh sát mắt sáng lên. Lần đầu tiên có gái đi cùng trong một trận đánh lớn ai chả thích. Tôi gọi, này em ơi anh biết tên em rồi. Cô gái cũng nói luôn, em cũng biết tên anh rồi nha. Biết từ lúc nhìn thấy anh da đen quá trời. Cấp trên của anh bảo, em về đó gặp thằng Luân đen rồi cùng nhận nhiệm vụ đêm nay. Cả tiểu đội cười ồ. A phó Ngô Thịnh nói trong lúc có tiếng pháo vút qua, này Hạnh ơi thằng Luân đen nó có người yêu ngoài Hà Nội rồi, em đi mũi luồn sâu đêm nay cùng anh thôi. Cô gái tên Hạnh cười ri rí. A trưởng phân công đâu em nằm đấy. Cả A trinh sát rúm vào nhau cười rinh rich. Tiểu đoàn nhằm hướng nam hành quân. Những cánh đồng ruộng trằm lúp xúp và những con kinh nhỏ rồi lại con kinh lớn. Pháo địch bắn từ thành Quan năm lên, từ Đồng Dù ra hu hú qua đầu. Có vài quả rớt cả vào đuôi đội hình khiến lính ta chạy nháo nhào lên phía trước. Vùa lúc gặp đoạn kinh lớn nước quá đầu người. Bộ đội phía sau hỏi lên có cởi quần không? Hạnh giật mình kêu chu cha! Thằng Ngô Thịnh nói khẽ với tôi, truyền lệnh cho cởi quần đi! Hạnh giãy nảy lên. Em xin. Em xin anh. A phó Ngô Thịnh cười hé hé. Cả đoàn quân cứ thế lặng lẽ xuống nước. Rồi có tiếng, chết đuối rồi! chết thằng Dìn rồi. Mỹ Hạnh quay ngoắt lại trong mập mờ đêm, nhoáng cái lôi chàng Dìn vào bờ. Chúng nó hỏi: Mày không biết bơi à? Em không biết. Hinh hích hinh hích, lính ta cười. Mỹ Hạnh càu nhàu, đồng đội chết ỉm đến cổ còn húm vào cười. Lính ta chả ai nói gì .
     Vượt qua lộ 8 đoạn Phước Vĩnh An. Cái đồn địch bắn đạn 12,8 đỏ lừ lừ cành! Cành! Cành! Chó sủa râm ran. Mặc, chúng tôi cứ nhắm phía Cầu Bông mà lội tới. Mùi bùn, mùi lúa con gái ngai ngái trong đêm. Lính hỏa lực ì ọp ngã lên ngã xuống. Bờ ruộng thì nhỏ bùn lại trơn, tôi bảo Mỹ Hạnh, tôi chiếu bản đồ Hạnh dẫn bộ đội lội trên lúa. Hạnh cự, nát lúa uổng lắm. Tôi gắt, không thể để chậm giờ vào chiếm lĩnh. Tôi truyền lại, tất cả lội ruộng theo trinh sát. Thế là hàng mấy trăm người bì bõm dưới ruộng, rồi leo lên ruộng cạn rồi lại xuống nước. Cứ thế chúng tôi vòng qua cánh đồng rìa làng Tân Thông Hội, xuống Tân Phú Trung.
     Một giờ sáng, trăng bất thần nhú ra. Cả đội hình đến cánh đồng trồng dưa của dân Tân Phú Trung. Trong đêm mà vẫn nhận rõ những chùm dưa lúc lỉu, nần nẫn. Truyền xuống, hạ ba lô im lặng. Trinh sát bàn nhau, xin đồng bào mấy quả dưa “khợp” đi. Lập tức bị Mỹ Hạnh phản ứng. Hạnh nói, các anh đi làm cách mạng mà lại ăn trộm của dân à?
     Tôi đưa cho Hạnh gói lương khô. Mỹ Hạnh mừng húm hít hà rồi ăn ngay, vừa ăn vừa nói lương khô chủ lực ngon quá trời. Tôi bảo mỗi trận đánh tụi anh chỉ được một gói thôi. Hạnh ăn rồi anh phải ăn dưa thôi. Cô biệt động kêu trời, rằng bộ đội lừa nhân dân. Chúng tôi cười khoái trá và bổ dưa ăn.
     Trưa hôm ấy 29/4/75 đánh dứt điểm đồn Tân Phú Trung và Cầu Bông. Đồng bào Tân Phú Trung ào ra đường ôm lấy Mỹ Hạnh. Người ta à lên, út ơi mày đi đâu mà lâu về thế? Bỗng có mấy người mặc đồ xi - vin lẫn trong bà con lục tục tránh đạn ngoài bưng đi về nhìn thấy Hạnh liền vùng bỏ chạy. Hạnh nổ súng ngay tắp lự. Mấy đàn ông sững lại. Thì ra đó là hai thằng ấp trưởng ấp phó và lũ dân vệ ác ôn đã từng săn tìm Mỹ Hạnh bấy nay. Cuộc đời thật trớ trêu. Họ gặp Hạnh và Hạnh cũng mong được gặp họ.
     Tôi xa Mỹ Hạnh từ lúc ấy. Hạnh ở lại Tân Phú Trung còn tôi cùng đơn vị tiến vào đô thành. Tiểu đội tôi ai cũng nhớ cô biệt động Mỹ Hạnh mà chả anh nào có may mắn gặp lại cô gái ấy. Vài chục năm sau tôi trở lại Củ Chi, bà con kể cho tôi nghe sau giải phóng Hạnh được đi học làm y tá rồi lấy chồng về trên Lâm Đồng sinh sống. Chỉ có điều tiếc là cô ấy mất đã vài năm nay.
     2 Cô giao bưu ở Bến Đình Củ Chi.
     20 / 4/ 1975:
     Nơi chúng tôi ém quân ở Bến Đình có một đơn vị giao bưu. Chỗ đó nhiều cây ổi lắm. Ổi xùm xòa xuống sông. Những cành ổi gác che mái nhà cho cái trạm giao bưu này nhiều mùa mưa nắng. Trưa nóng, tôi mắc võng sát mặt nước. Nằm nhìn lục bình trôi xuôi dòng và những con cối xay lan lan chạy trên mặt nước tôi chợt nhớ nhà, nhớ ngày bé con của mình.
     Cách chừng 10 mét có một cái võng, một cô gái giao bưu cỡ tuổi tôi ngồi thõng chân nhìn bất động ra sông. Mấy ngày nay bộ đội chủ lực về đây đông nghìn nghịt kín cả triền cỏ dọc sông Sài Gòn. Bộ đội đông đến nỗi con chim sâu cũng vui. Nó nhảy nhót trên vòm lá mâm xôi ven bờ sông thủy triều lên xuống kêu như tiếng hát của lũ trẻ tí hon trong cổ tích.
     Cô gái giao bưu nhớ gì mà cô im lặng đến hàng giờ. Gương mặt thật đẹp. Cô chỉ nhìn vào đám lục bình trôi ngoài sông Sài gòn. Mặt sông lốm đốm những đám lục bình trôi. Những chùm hoa tím chĩa lên trời. Sóng sông lom tom như cá quẫy. Trưa nắng, có cả tiếng bìm bịp kêu. Sông Sài Gòn lên hơi như khói.
     Không biết người con gái ấy nhớ ai? không biết có điều chi uẩn khúc. Mặt trái soan, mái tóc kẹp cặp ba lá, ngực căng bà bà đen. Chỉ có con mắt là buồn tê tái. Tê tái ngay cả lúc trưa nắng và đầy con trai bên bờ sông im tiếng súng. Chưa bao giờ tôi thấy cô nói, chỉ nhìn đoàn quân ồ ạt trẻ trung như kẻ mộng du rồi laị nhìn ra sông. Cứ thế cô như một hòn vọng phu búi tóc.
     Buổi trưa 26/4 sau lúc được trung đoàn phổ biến chiến dịch được mang tên CHIẾN DỊCH HỒ CHÍ MINH ai cũng mừng húm. Tôi vội moi cóc ba lô nhưng tìm không thấy cây bút để viết nhật kí. Ngó sang thấy cô giao bưu vẫn ngồi trên võng nhìn ra sông, liền đánh bạo sang hỏi mượn cây bút. Cô gái móc trong cái bồng treo trên cành ổi ra cây Bic đưa cho tôi và khẽ nói, anh cầm lấy mà dùng. Không hiểu sao trang nhật kí hôm ấy tôi toàn viết về con gái Củ Chi. Tôi viết về họ, những người chiến đấu kiên cường trong vòng đai lửa thép mà ai cũng xinh cũng đẹp. Có điều ai cũng buồn buồn.
     Đêm hành quân chiếm lĩnh Cầu Bông Tân Phú Trung tôi đã nghe cô biệt động Mỹ Hạnh kể về cô giao bưu ấy.
     Năm 1974 trong một trận càn của sư đoàn 25 VNCH vào khu vực Bến Đình. Chồng cô gái là trạm trưởng giao bưu đã chiến đấu hết đạn và bị địch bắt. Họ có một đứa con trai mới hai tuổi hôm ấy cũng ở lại trạm với bố còn mẹ đi công tác chưa về. Địch bắt được hai bố con và chúng đưa ra sông buộc đá vào bố và con rồi thả xuống sông Sài Gòn. Nơi kẻ thù buộc đá thủy chôn chồng con cô gái chính là trước rặng ổi nơi chúng tôi về trú quân vừa qua. Bây giờ thì tôi biết vì sao cô gái xinh đẹp ấy đã bao nhiêu ngày ngồi thõng chân nhìn ra sông Sài gòn bất động như một hòn vọng phu.
     Một thời gian sau 30 tháng 4 năm 1975 tôi lại gặp người con gái giao bưu Bến Đình ở Bưu Điện huyện Củ Chi khi đi gửi thư về nhà. Cô ngồi trong quầy gửi thư và điện tín. Tưởng cô nhận ra mình nhưng cô nhìn tôi rồi trượt cái nhìn qua đầu ra ngoài sân đầy nắng mùa hè. Vẫn buồn, vẫn im lặng, vẫn đẹp. Ngoài kia, chiến tranh mười ngàn ngày vừa đi qua đất nước tôi và cuộc đời chúng tôi. Năm 1988 khi tôi vào công tác Sài Gòn nghe tin cô ấy vừa mới đi lấy chồng.
      3 Chị bẩy Thơm
     Lâu rồi, kể từ 1993 tôi và một người bạn dưới đài THTP thăm chị nay đã 9 năm. Hai hàm răng chị lúc ấy đã rụng mấy cái, chị cười mà không biết là chị cười. Khổ thế. Cái răng cái tóc cả hai cái đều báo hại chị. Một thời cái tên Bảy Thơm ở xã Tân Phú này ai mà không biết. Gặp chị loe hoe tóc bạc xơ, răng rụng khiến hai má lóp lại. Nhìn không ra, phải nói là: em đây chị, em là Luân 320 này. Chị à à ờ ờ rồi khóc. Khóc chán rồi chị cười. Mà em vô lâu mau? ở lại không? Bỗng nhiên chị lại khóc. Mà em ơi chị không nuôi được em bữa cơm như ngày nào đâu... Nghe buồn thế, tôi và Thành nín thinh . Ngoài vườn mấy cây lê ki ma, cây trứng gà lá rụng nâu xỉn mặt sân. 2 Cái lô cốt chắn cái cổng vào nhà chị biến mất tự bao giờ. Bây giờ chính quyền họ sắp chia lô bán đất. Nhà chị vẫn nép sau sự ồn ã của xã hội đổi mới.
      Trung đoàn 64 đánh ấp Chợ (Tân Phú Trung). Khó khăn nhất là 2 cái lô cốt bên nam đường chỗ đầu dốc ấp Chợ. Cả căn cứ này có một tiểu đoàn địch hỗ trợ cho cầu Bông cách đó chừng 800 mét. Cô biệt động Mỹ Hạnh ghé tai tôi lúc còn ở trên An Nhơn Tây. Anh yên tâm đi, điều nghiên cụm lô cốt Tân Phú Trung em đã nhắn nhe chị Bảy Thơm. Tôi hỏi lại, bảy Thơm là ai? Mỹ Hạnh trả lời, chỉ là cán bộ phụ nữ nhà sát ngay phía sau đồn địch. Hàng rào dây thép gai lô cốt Tân Phú Trung vào mép vườn nhà chỉ. Lát nữa khi đến Bàu Trâm sẽ gặp bảy Thơm để chỉ đưa sơ đồ cụm lô cốt đó anh hai. Chỉ cũng sẽ là người dẫn đường đại đội đánh bộc phá đó anh
     Đêm ấy tôi gặp chị lúc trăng mờ mờ ngoài đồng dưa leo. Chả rõ mặt nhưng thân hình eo ót và lanh lẹ lẩn vào đêm. Trận đánh hôm 29/4 cũng may mắn là nhà chị không bị trúng đạn hay bị cháy. Chị khoe cái hầm giữa nhà xây cất từ năm Mậu Thân kiên cố lắm. Bên trên là một cái phản rộng bằng bê tông đúc dày đến 15 phân ba hàng mễ vâm vu làm thành mái chắn mảnh pháo. Chiến tranh bom đạn nên gặp rồi xa chẳng ai nghĩ có thể gặp lại chị.
     Một tuần sau ngày 30/4 Sư đoàn 320 trở ra Củ Chi đóng quân. Tiểu đoàn tôi lại đóng đúng ngay ấp Chợ. Chúng tôi ra thăm cánh đồng chôn hơn ba mươi tử sĩ của tiểu đoàn hôm 29/4, đi lại những bờ mương, những dặng bằng lăng còn nhuốm màu khói súng. Cuộc sống của dân làng đang còn ngơ ngác thăm dò. Chúng tôi vào ngôi nhà gần cái lô cốt oái oăm kia xin nước và tắm nhờ. Ông già quắc thước chừng ngoài 60 mặc quần cụt ngồi khoanh chân trên phản. Ông nói nghe sang sảng, con bảy lấy cho mấy chú muợn cái thau. Ông phẩy phẩy cái quạt, tắm rồi vô chơi. Chúng tôi múc nước giếng tắm ào ào. Rồi vô sân kiếm cái ghế ngồi. Ông già kể, sáng 30/4 tao một mình một xe dắt con dựa bám theo bộ đội vô thành phố, suốt cả ngày không thấy thằng hai thằng tư tao mới về. Mới giải phóng mà có ông già gọi quân giải phóng là mày xưng tao cũng thấy chờn chợn. Ngồi nghe vậy thôi mấy thằng chưa dám hỏi gì. Ông bảo, mai vô đây tao kêu con bẩy nướng bánh tráng nhậu vài li đế chơi. Tò mò quá. Nhậu bánh đa nướng với rượu đế? Chưa bao giờ tôi từng biết. Tối sau chúng tôi lại vào. Chị bẩy nướng mấy cái bánh đa và thái mấy qủa soài xanh. Bánh đa Củ Chi có tiếng chả kém gì Trảng Bàng đâu hà. Ông nói rồi đưa li cho chúng tôi. Ông đưa li nào thì tôi uống li ấy. Hồi đó tôi chưa từng uống rượu nhưng cứ uống và thấy cũng hay hay. Rồi nghe ông kể. Trong lúc ông kể thì chị bẩy lụi hụi gọt thêm soài, nướng thêm bánh. Ôi thì ra là du kích Bảy Thơm tôi đã gặp ngoài đồng cái đêm vào đánh ấp Chợ. Từ lúc ấy tai nghe câu chuyện ông già kể còn mắt thì nhìn chị Bảy. Tấm áo bà ba căng căng. Mặt cúi xuống hiền khô chả thấy ngẩng lên.
...Thằng hai đi tập kết theo mấy anh mới mười mấy tuổi. Lớn lên thằng ba thằng tư kém nhau mỗi đứa 2 tuổi, cũng đi giải phóng lúc mỗi đứa vừa mười tám. Thằng năm mãi tới 71 cũng đi huyện đội. Cái năm 70 thằng Ba bị bắn chết trên Tân Thông, tụi nó đưa xác về để ngoài chợ phơi hai nắng. Đêm tao mò ra lấy xác nó đem chôn. Một mình một cây dựa tao vác nó ra tận ấp bàu trâm. Rồi ông khà. Ông ngó ra ngoài vườn. Chị bẩy cũng thở dài nhìn vào đêm. ….ông nói tiếp …30 /4 tao mừng quính quáng tao dắt cây dựa nhằm đường qua thành Quan Năm theo bộ đội đi tìm thằng hai thằng tư thằng năm. Tao hỏi chả ai biết thằng Hai thằng Tư với thằng Năm là thằng nào. Bộ đội chỉ cười bảo tao chắc các anh ấy ở cánh quân khác. Biết bao nhiêu là cánh quân tao tìm sao nổi. Năm ngoái tao nghe có người trên huyện mới ở ngoải về nói thằng Hai được đi Nga xô học làm cũng lớn lắm ở ngoài Y tế. Thế nào mà nó chả theo về giải phóng. Thằng Tư đi bộ đội xuống tận Bến Tre. Thằng Năm dông lên Tây Ninh. Hôm nay vẫn chưa đứa nào về. Tao ở cái vườn này từ ngày thằng Mĩ chưa xây cái lô cốt kia. Nó làm lô cốt rồi, nhà mình rặt bộ đội với tập kết ai cũng kêu bỏ đó đi. Tao thây kệ tao cứ ở đây nó mới ngán. Tao chả đi đâu hết ngày tao ra đồng tối tao về ngủ. Con bẩy đi phụ nữ tau kêu liệu mà giữ lấy thân.
     Chị bẩy mặn mòi, chị làm phụ nữ xã nhưng hoạt động hợp pháp. Hai mươi lăm tuổi chưa có chồng. Nghe đâu có thương anh nào đó trên bộ đội Củ Chi mà ảnh hi sinh rồi. Mươi ngày sau chúng tôi về đóng trên Đồng Dù. Vài tuần được ra khỏi doanh trại một lần, lại chạy nhờ xe honda xuống Tân Phú Trung ghé vào nhà chị. Ông kêu chị bảy nấu cơm ăn, ngồi với ông học uống rượu đế. Một bữa thấy nhà đông hơn, có người đàn bà và hai thằng nhỏ 6, 7 tuổi. Chị bảo vợ và hai con anh Tư ở Bến tre về. Anh Tư hi sinh từ năm 1970 cùng năm anh Ba. Tháng 8/75 tôi đến chị mừng quýnh khoe mày lâu không xuống nên không gặp anh hai. Ảnh về rồi, học ở Nga Xô về mang cả vợ người bắc nữa. Ảnh làm cục phó cục gì gì về dược đó, ở nhà vài bữa rồi đi ở dưới thành phố. Chị ba về lại Bến Tre, hai đứa con để đây ở với nội, tao nuôi luôn. Rồi sau đó là làng quê giải phóng thay da đổi thịt hừng hừng vô tổ hợp, tập đoàn. Cái cầu Bông cách ấp Chợ non cây số cũng xây lại, mang cái tên cầu An Hạ. Cánh đồng phía tây ấp Chợ có một con mương đào lấy nước mang cái tên Phạm Văn Hai, rồi nông trường này nọ mọc lên. Những dặng bằng lăng ngoài bờ ruộng chỗ còn chỗ chặt đi. Đôi chỗ bằng lăng còn xót lại hoa vẫn tím ngan ngát mỗi độ tháng năm về. Năm 2003. Tôi đi công tác, lên thăm Tân Phú Trung. Con đường xuyên Á rõ to và phẳng đẹp. Dừng lại ở cầu Bông nhìn xuống dòng nước rợp những thân dừa nước và lau sậy khi xưa bây giờ chỉ thấy là quán sá. Cái chợ xưa vẫn còn đó. Cái dốc lên chợ nay ít dốc hơn. Chỉ có một đặc điểm là những bờ mương, bờ ruộng vẫn đầy kịt lục bình như xưa. Củ Chi vời vợi xa mà gần sau tiếng búa máy và xe cộ xoe xóe ngoài đường.
Nhà chị bẩy vắng quá. Cái cổng cũ biến đâu. Tôi và bạn mình đi vòng lối sau vào nhà. Cái vườn chia năm xẻ bẩy bằng rào ô rô khô tái. Chị bẩy móm mém. …”Nội mất rồi, hai thằng cháu đi làm phụ hồ rồi đánh bạc cá cước bóng banh chi đó. Người ta xiết nợ. Chị có tiền góp hui rồi bể hụi. Vườn bán dần giờ chỉ còn cái xác nhà... “
     Tôi hỏi chị trả nợ xong chưa? chị bảo hai đứa cháu con anh Tư lấy tiền bán đất trả nợ rồi đi biệt. Trả hụi chưa hết chị tính bán nốt cái nhà rồi lên Tây Ninh tá túc nhà anh Năm. Chị ba về Bến tre lấy chồng khác con cái lúc lỉu đỡ sao được nữa. Anh Hai cũng mất vài năm nay. Chị Hai bán nhà đưa con về bắc. Chị Bẩy bảo chả lo gì, chỉ nghĩ nếu về Tây Ninh ai hương khói cho cha và anh ba trên An Nhơn Tây.
     Trước mắt tôi chị bẩy Thơm phụ nữ 30 tháng tư vẽ sơ đồ đồn Tân Phú ngày nào giờ là một bà già móm mém trong ngôi nhà vắng. Ngoài kia tiếng máy ủi máy búa đang rầm rập thi công khu công nghiệp Tân Phú Trung. Cái vườn có những cây lê ki ma vẫn xanh mướt nhưng đã là của người khác. Bờ ao hoa lục bình thì vẫn tím.
     4. Người yêu của lính phía bên kia.
.....Chiến dịch giải phóng Tây Nguyên 1975
     Đánh vào thị trấn Buôn Hồ ngày 12/3/75 chúng tôi lính E64F320 ào lên thị trấn vào lúc gần trưa. Một trận địa pháo 4 khẩu 155 li không còn một tên lính nào. Vừa lúc trước nó còn nã đạn vào chúng tôi ở phía bên kia cánh rừng Cà phê Buôn Hồ. Thế mà giờ đây chỉ sau một giờ 30 phút bộ đội ta nổ súng và xung phong họ đã biến mất. Họ bỏ pháo bỏ trận địa chạy về hướng đông. Chúng tôi vượt qua anh em cối 120 của sư đoàn còn đang khiêng vác ì ạch để tiến vào khu chỉ huy trận địa pháo binh. Trước khi rút chạy lính đối phương đã kịp gài lựu đạn. Căn nhà chỉ huy có dây mìn giăng ngay các cánh cửa sổ. May mà bọn tôi phát hiện ra, rồi gỡ mìn. Từ lúc ấy lính ta dò dẫm chứ không ào ào xông xáo nữa. Tôi thận trọng lò dò bước qua cửa, nhìn căn phòng của tên trung uý đại đội trưởn Tiền đồn này cũng đơn xơ, nhưng chỗ ở của tên này ngay ngắn và rất nhiều sách (!) . Tôi nhấc mấy cuốn sách của Hemingway trên cái kệ đầu giường hắn ra, có một phong bì lớn ( loại phong bì công vụ của QLVNCH ) . Tôi rút ra một tập thư. Ngay lá thư đầu tiên tôi biết là thư của con gái. Quay trở ra mấy thằng hỏi mày kiếm được gì không? tôi bảo nhiều lắm, biến thôi . Tập thư tôi nhét ngay vào bụng áo .
     Ngay sau đó lệnh trên cho chúng tôi tiến vào Buôn Hồ 2 , tức là vùng thị trấn mới phát triển cách đó chừng 3 cây số. Một cánh rừng cà phê ngút ngàn gần một cái hồ nước thật xanh và sâu thẳm. Dừng chân triển khai đội hình sẵn sàng chiến đấu khi có quân đổ bộ đường không. Tôi lặng lẽ giở thư ra đọc. Tất cả 25 lá thư của một người con gái Sài gòn H. T. H. Nhung gửi cho thiếu uý và nay là trung uý Thái Anh T .
     Tôi đọc say xưa và trong tôi hiện ra một đêm người sĩ quan trẻ từ Cao Nguyên về Sài gòn thụ phép, gặp cô sinh viên luật khoa năm nhất ở một nhà người bạn …. Rồi những ngày cô ấy nhớ chàng thiếu uý và đã từng bay lên cao nguyên, đã từng lặn lội tới nhà người anh trai mình đang là chỉ huy một phòng trong bộ Tổng tham mưu để nhờ chuyển cho bạn trai mình bộ sách “ chuông nguyện hồn ai ’’ và “Giã từ vũ khí ”. Những kì nghỉ chớp nhoáng của trung uý T về sài gòn, những cuộc gặp nhau đẫm nước mắt và nụ cười lãng mạn đẹp đẽ. Càng đọc về sau càng hiểu họ yêu nhau, yêu mê đắm. Giọng văn của thiếu nữ miền nam thật mới mẻ với chúng tôi. Nồng nàn chân thật trong yêu đương, vừa nũng nịu vừa thiết tha căn dặn.
     Đọc thư của họ mà mình cũng thấy cuộc đời đáng yêu đến thế. Việc lấy thư từ của đối phương mà đọc hẳn là một khuyết điểm lớn. Nhưng chả cứ gì một mình tôi, nhiều người khác cũng làm liều như thế vì lính bên này hay bên kia cũng đều yêu thương cha mẹ vợ con mình giống như nhau. Dù vậy tôi cố gắng không để cho đồng đội xung quanh biết. Nhưng có lá thư hay quá không thể nín nhịn một mình được bèn gọi mấy thằng xúm vào cùng nghe. Cứ tưởng chúng nó chê mình hữu khuynh, tư tưởng lệch lạc đọc thư của đối phương. Ấy thế mà nghe tôi đọc chúng nó cứ im thin thít. Có thằng thở dài ... có thằng khịt mũi liên hồi. Tôi cũng thở dài rồi cả tiểu đội im lặng. Chính trị viên không biết, đại trưởng cũng không biết, chỉ có chúng tôi biết với nhau.
     Chiều hôm ấy hành quân đi đánh Cư Pao. Một cứ điểm nằm trên đường 14 cách Ban Mê Thuột về phía bắc chừng 20 cây số, chúng tôi lại có thêm những lá thư của lính. Rồi tiếp tục là những ngày truy kích trên đường 7 chân tơ tướp máu, những trận đánh cứ liên miên suốt tháng ba. Dọc đường chiến trận tôi lại thu được nhiều những ba lô mà lính địch bỏ lại, nhưng chỉ nhặt những lá thư hay các tấm ảnh của họ để xem. Trong tôi đã từng nhớ những tấm ảnh của nhiều cô gái là vợ là người yêu của lính đối phương. Những người đàn bà mà tôi cũng thấy yêu quí. Tôi cứ phân vân, hình như mình đã hữu khuynh sai lầm chi đó. Thế nhưng hình ảnh những người phụ nữ ấy cứ hiện lên cùng với hình ảnh mẹ tôi và các bạn gái của tôi ở trường cũ.
     Một hôm hành quân mệt quá rồi, dừng lại là nằm lăn quay ra rừng. Có thằng gọi to: Luân ơi đọc thư tình đi. Tôi lấm lét rút ra một lá thư đọc cho cả trung đội nghe. Thằng nào cũng nuốt nước bọt nơi cổ họng chả để ý gì xung quanh. Đúng lúc ấy anh đại đội trưởng đi lại, anh ấy ngồi xuống lặng lẽ. Đọc một lá thư con gái thôi mà cái mệt tan đi nhanh quá. Thằng nào cũng tưởng rằng đó chính là tiếng nhắn nhủ của người yêu mình. Rằng sự yêu thương của người con gái nó lớn lao quan trọng thế nào với người người lính chiến biền biệt ở trận tiền. Rằng, tình yêu không có biên giới, tình yêu không thù hằn, không có phía bên này hay bên khác. Tình yêu ở mọi phía giống nhau. Tình yêu không có ta và kẻ địch, nó chỉ là khát vọng sống, khát vọng được yêu thương. Tình yêu chỉ làm cho cái thù hằn trong con người bớt đi. Nó chỉ làm cho trái tim thêm dòng máu tươi đỏ. Tình yêu là tiếng nói chung vì đó là trái tim con người, ước muốn của chung con người.
     Rồi những ngày sau, chiến dịch cuốn như lũ, chúng tôi đánh ra tận bờ biển Tuy Hòa rồi lại lên đường đi đến chiến dịch cuối cùng. Chúng tôi tiến vào Sài Gòn khi chưa kịp chuẩn bị nghĩ là mình sẽ gặp Sài Gòn.
     Sáng ngày 1/5/1975 Tôi được chọn thay mặt chiến sĩ trung đoàn 64 sư đoàn 320 giao lưu gặp gỡ với các Thày giáo và học sinh sinh viên tại trường trung học Lê Quí Đôn. Đây là ngôi trường ở gần sát với Dinh Độc Lập). Buổi trưa hôm ấy, chợt nhớ ra địa chỉ từ những lá thư của cô SV Luật khoa HTHN với chàng trung uý pháo binh Thái Anh T…trên Buôn Hồ. Giữa thành phố Sài Gòn đầy nắng tôi thấy hiện lên cặp đôi trai gái Sài gòn mà tôi như đã thân quen. Tôi đi dọc đường Trần Hưng Đạo tìm đến nhà ….x15. Đường phố to quá, dài quá, đi mỏi cả chân. Cái số ….X15 cũng nhiều nhà sau một cái cổng sắt to. Tôi bần thần đứng ngoài cổng nhìn vào. Những bậc tam cấp những vòm hoa lơ đãng dửng dưng. Cô gái có tên HTH Nhung ở đây ư? Hỏi ai bây giờ nhỉ? và nói mình là ai? Chả nhẽ nói tôi đuổi người yêu của cô chạy tóe khói rồi lấy thư tình của cô để mang ra đọc. Đọc mãi rồi nay lai tìm gặp cô ư? Những người con gái 30 tháng 4 mang những số phận chả giống nhau. Họ là những mảnh ghép yêu thương của đất nước tôi từng mấy mươi năm lửa khói
     Tôi quay trở về.
    Sài Gòn nắng tháng năm vàng như mật. Thành phố ngày đầu tiên giải phóng lâng lâng bàng hoàng. Tôi khoác khẩu AK báng gấp đội mũ tai bèo chìm vào trong dòng người và xe cộ với không gian còn đang ngơ ngác. Trong tôi bần thần hiện lên câu hỏi, trung uý Thái Anh T bây giờ ở đâu nhỉ? Anh ta còn sống hay đã tử thương? Còn cô gái mang cái tên thật đẹp HTH Nhung ấy bây giờ còn ở lại thành phố này hay đang lênh đênh trên biển? bỏ lại đằng sau là thành phố Sài Gòn xinh đẹp và tình yêu nồng nàn một thời với một người trai lính chiến .
Hơn bốn chục năm rồi, nhớ lại chuyện đọc thư tình của lính mà lòng tôi vẫn bâng khuâng
***
    Bốn mươi sáu năm sau. Ngày 30 tháng 4 lại đến. Trong ngất ngây những kí ức về ngày thống nhất tôi vẫn bâng khuâng nhớ về những người phụ nữ tôi từng gặp họ từng thấy và nhớ về họ vào lúc đất nước thu về một mối qua đau thương hệt như con tằm lột kén, họ thật đáng trân trọng và yêu quí biết nhường nào.

Tháng 4 năm 2021 - NTL

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét