LAN MAN CHUYỆN LÀNG TÔI
Đỗ Đình Tuân
Phần năm
Ao Rồng-Đống Xộp
Trong những ngày đi ngủ ở ngoài đồng như thế, bố tôi cũng thường mang theo một siêu nước chè tươi, một điếu cày và một “nọn rơm” giữ lửa. Những người ngủ cùng một đống vẫn thường lầm rầm chuyện trò và thỉnh thoảng lại thổi lửa hút thuốc. Chính trong những ngày gian khổ và đầy lo âu này hình như mọi người càng nhớ tiếc cái thưở yên hàn vẫn tưởng còn như mới ngày hôm qua. Trong những câu chuyên lầm rầm của họ thấy toàn nói về những hội hè, đình đám; chuyện con trai con gái chim chuột nhau; Chuyện đám cưới đám xin; chuyện sinh cơ lập nghiệp…
Bố tôi cũng mãi đến năm 27 tuổi mới lấy vợ. Bố tôi còn nhớ rất cụ thể là đám cưới được tổ chức vào ngày 20 tháng 10 âm lịch (1940). Tiếng là lớn xác nhưng sang nhà vợ thì xấu hổ không cả dám đi đái. Thành thử cứ phải cố nhịn. Chỉ muốn nhanh nhanh chong chóng được “rước dâu” về để “đỡ bí” mà nào có được. Các cụ cứ con cà con kê mãi rồi mới cho rước dâu. Đã thế vừa ra khỏi cổng, mới đi lên đê được một đoạn, thì ông trưởng tộc họ vũ (bậc đàn anh, con ông bác của mẹ tôi) đã lập một cái án thư chặn lối. Đám cưới lại phải dừng lại để “điều đình” về cái giá để mở lối cho đi. Cuối cùng phải chi đủ một đồng thì “ông anh” mới chấp nhận. Về đến nhà việc đầu tiên là bố tôi chạy ra vườn rồi mới vào làm lễ tơ hồng. Bố tôi bảo đó là lần “nhịn đái” kỷ lục nhất. Nhưng cũng nhờ “tính bức xúc của cái khối nước thải chứa trong bụng” ấy mà quên cả xấu hổ. Bố tôi kể chuyện này ai cũng phì cười. Bác Trương Hương tiếp luôn: “Tôi cũng thế, lên nhà vợ cứ ngồi chết dí ở một góc giường, ai bảo làm gì thì làm theo như cái máy. Chú Hội Mậu (em con ông chú của bố tôi) thì láu táu chen vào: “Các bác lấy vợ khi đã lớn tuổi rồi còn đỡ chán. Em lấy vợ sớm, hãi lắm. Em chỉ sợ đến tối là bố lại bắt vào buồng ngủ chung với vợ. Ban ngày mình còn đi trốn được, chứ ban đêm thì biết trốn đi đâu. Thế là cứ cơm nước xong, ông cụ lại cầm roi gọi về bắt phải vào buồng, rồi ông cụ khóa cửa ngoài lại. Em cứ phải đứng như trời trồng ở trong buồng. Mãi sau rồi cũng phải lần vào giường nằm nín thở sát mép ngoài giường. Cô ấy chừng như cũng sợ cứ nằm nép mình tận sát vách”. Mọi người cùng cười ồ và hỏi đùa “ Thế sau làm thế nào mà lại gần nhau được mà đẻ lắm con thế?”.Chú Hội Mậu lại láu táu trả lời môt cách rất thật thà “Em cũng không biết nữa. Nhưng có lẽ là khi ngủ say thì tự nhiên nó hút vào nhau. Rồi dần dần thấy quen, thấy ấm, thấy thích. Đến lúc ấy mới thành vợ chồng được”.
Nhưng bác Trương Hương và bố tôi thì khác. Cứ lấy vợ là ông tôi cho ra ở riêng ngay. Bởi vì ông tôi, như có lần tôi đã kể, có tới ba bà vợ đồng thê. Mỗi bà đều có một “tư dinh” và nằm gần như song song và cách đều trên bờ con sông Đào. Ông tôi ở với bà “chính thất phu nhân” Lê Thị Áng, người Nam Gián Đông, ở khu trung tâm. Phía bên tả, cách hai nhà là “tư dinh” của bà “trắc thất phu nhân” Vũ Thị Huyền, người Ninh Xá. Phía bên hữu, cũng cách hai nhà là “tư dinh” của bà “thứ thất phu nhân” Đoàn Thị Hương, người Nội Hưng, Nam Sách. Bà nội tôi-Lê Thị Áng, cứ đều đặn bốn năm sinh một lần. Không hiểu là ông bà tôi “xây dựng” với nhau từ năm nào. Nhưng cứ theo “sử sách” còn ghi lại được thì trong khoảng từ năm 1905 đến năm 1921 bà tôi sinh cả thảy năm lần được bốn chàng trai: Vinh, Hương, Đăng, Đặng. Duy nhất có một lần sinh con gái vào năm 1917 thì lại không nuôi được. Có lẽ vì vừa cần người giúp việc nhà nông lại vừa khát con gái nên bà nội tôi nuôi những ba cô con gái nuôi. Sau này có hai cô đi lấy chồng thiên hạ, không thấy đi lại gì nữa nên chúng tôi không biết gì về tình hình các cô ấy cả. Chỉ duy nhất có cô Đỡ lấy ông Trương Hồi người cùng làng, sinh được một trai, một gái thì cũng mất sớm. Nhưng các anh chị ấy vẫn đi lại bình thường như anh em bên ngoại.
Năm 1925, bác cả Vinh nhà tôi đã sinh cô con gái đầu lòng Đỗ Thị Khang. Khoảng năm 1930, bác Đỗ Đình Vinh làm lý trưởng làng. Từ đó mới có tên là Lý Khang. Theo luật tục, khuôn đất ông tôi ở tất nhiên phải bàn giao cho con trưởng. Bà hai, bà ba mỗi bà chỉ có một con trai, nên cũng không phải lo gì về khoản “đất ở”. Duy chỉ có bà cả, còn những ba cậu con trai nữa là phải lo đến chuyện “san hộ”. Thế là ông tôi phải cắt ruộng đổi lấy ba sào đất vừa gò vừa ruộng ở khu Đống Xộp đình làng cũ để “san hộ” cho ba cậu con trai Hương, Đăng, Đặng.
Khu Đống Xộp này tương truyền có một vị thần đất to lắm. Ngài thường hay xuất hiện vào những đêm mùa xuân mưa phùn gió bấc. Lần thì người này thấy ngài đi từ Đống Xộp ra đồng. Lần thì người kia lại thấy ngài đi từ ngoài đồng trở về Đống Xộp rồi mất hút. Người ta bảo đó là những lần ngài đi “công tác” về. Theo những người “đã từng chứng kiến” kể lại thì ngài to bằng cái nồi gánh nước (nồi hông), sáng xanh, ngài đi đến gần thì trông rõ cả mũ cánh chuồn, xiêm y, hia hài bệ vệ lắm. Tôi được nghe kể nhiều về ngài nhưng chưa từng trông thấy ngài bao giờ. Nhưng chắc mọi người đều tin là “linh nghiệm” nên khi ra ở khu đất này mẹ tôi đã cho xây riêng một ngôi điện thờ vị thần đất này. Ngôi điện này có cái bệ khá cao. Nhưng lòng điện nhỏ thôi: trong cùng là cái bệ thờ có đặt một chiếc mũ ông công, dưới có cái bát hương với vài thứ đồ thờ sơ sài. Tiếp đến là một khoảng không gian chỉ đặt vừa một mâm cỗ. Mái điện không lợp ngói mà cuốn gạch rồi chát kín kiểu như người ta cuốn mui bể nước. Hai góc mái phía sau xây bít đốc lên để bằng. Hai góc mái phía trước có làm những đầu kèo giả uốn cong như những đao đình. Gần đây tôi về xem lại ngôi điện mới để ý thấy trên đỉnh điện có đề ba chữ Hán, nếu đọc xuôi như chúng ta đọc chữ quốc ngữ ngày nay, từ phía tay trái sang phía tay phải, thì trật tự của ba chữ đó là 在如敬 (tại như kính). Song song hai bên cửa điện cũng thấy ghi một đôi câu đối, mỗi vế năm chữ. Vế bên tay trái là: 土旺人常旺 (thổ vượng nhân thường vượng) và vế phía bên tay phải là:神安宅自安 (thần an trạch tự an). Ngôi điện tuy nhỏ nhưng trông thanh thoát và tôn nghiêm. Có lẽ đây chỉ là ngôi điện thờ riêng của cư dân Đống Xộp. Tôi không thấy người làng vào cúng khấn ở ngôi điện này bao giờ. Nhưng nhà bác Trương Hương, nhà tôi và nhà chú Đặng thì tuần rằm mồng một nào và mỗi khi nhà có việc cúng giỗ đều thấy có mang lễ ra điện thờ để cầu cúng ngài. Khi thì cũng bằng cỗ mặn, cũng có khi thì chỉ cúng bằng hoa nghi và quả phẩm thôi. Những năm tôi đã nhơn nhớn, thường cứ mỗi lần chuẩn bị ra điện làm lễ, bố tôi lại sai tôi ra dọn dẹp trước. Tôi phải lau chùi đồ thờ và quét dọn lòng điện cho sạch sẽ. Đó cũng là lúc mà bố tôi áo lương khăn xếp chỉnh tề rồi bưng mâm cỗ cúng sang điện. Ông cụ đặt mâm cỗ xuống lòng điện, kiểm kê các thứ… rồi thắp hương, rót rượu xong, thì ra đứng trước cửa điện lầm rầm khấn vái. Tôi chưa bao giờ nghe rõ và biết được nội dung của những lời khấn ấy. Chỉ thấy ông cụ lồng hai bàn tay vào nhau chắp trước ngực, đứng nghiêm trang lầm rầm khấn, một lúc thì lại vái mấy chiếc, rồi lại đứng nghiêm lầm rầm khấn. Trong khi khấn, thỉnh thoảng lại thấy è…è… mấy cái, hình như là để ngắt giọng và lấy hơi…Cũng có thể là để nghĩ những câu khấn tiếp. Độ vài điệp khúc như thế thì kết thúc. Ông cụ về, còn tôi thì phải ở lại để canh mèo. Khoảng độ tàn hương thì ông cụ mới ra xin lễ, bưng về.
Ngay cạnh Đống xộp, về phía Bắc có một cái ao làng khá to gọi là Ao Rồng. Người làng tôi vẫn giải thích lai lịch cái tên Ao Rồng là vì trước đây có thời kỳ loạn lạc gì ấy, người làng tôi đã phải đem các thứ đồ thờ trong đình ra chôn giấu ở đây. Từ đó mới có tên là Ao Rồng. Nhưng nhiều người làng tôi cho biết chính ngôi đình cũ của làng cũng xây ngay trên khu Đống Xộp này. Người ta còn cho biết rất cụ thể vị trí của nền đình nằm trên khuôn đất mà bác Trương Hương tôi hiện đang ở. Quả có như vậy thật. Bởi vì ngay trước cổng nhà tôi và nhà bác Trương Hương vẫn còn một thửa đất rất vuông vắn, làng giao cho ông Ủn là người làm “mới” trước đây của làng sử dụng. Bà Ủn chuyên cho cấy khoai bông, khoai ngứa để lấy dọc khoai nuôi lợn và dải khoai nấu ốc. Nhưng người làng tôi không ai gọi cái thửa ruộng cấy khoai này là “ruộng khoai” cả, mà vẫn gọi nó là “sân đình”. “ Ra Sân Đình bảo bà Ủn bán cho mấy bó dọc khoai”; “Ra Sân Đình bảo bà Ủn bán cho mớ dải khoai ”…Chính cách gọi tên không chính xác này của người làng tôi lại thành ra rất văn hóa. Nó gọi được cả quá khứ. Nó gợi lên được sự biến thiên của đời…đầy “bãi bể nương dâu”…
Khu đình mới của làng tôi lại chuyển ra vị trí khác ở phía tây làng cách khu đình cũ chừng trăm mét. Đó là một khu đất cao và tách biệt hắn ra với làng. Tất cả các công trình văn hóa tâm linh tín ngưỡng của làng tôi đều được xây dựng ở trên khu đất này. Chính giữa khuôn viên là ngôi “đình mới”, kiến trúc theo lối “chữ đinh ngắn đuôi” gồm một gian cung và ba gian tiền tế. Phía bên hữu và dịch lên phía trước là ba gian chùa, mở cửa dọc phía đầu hồi để có cùng hướng Bắc-Nam với ngôi đình. Cái cửa dọc này quanh năm đóng im ỉm. Trước cửa chùa có một chậu cây cảnh gọi là cây đồi mồi, có lá to như lá vối, lại lốm đốm nhiều mầu trông rất sặc sỡ, không khác gì một chậu hoa vậy. Từ phía sân đình đi lên chỉ thấy mở một cửa nách hẹp để đi vào chùa. Phía bên tả và lùi hẳn về phía sau lại có một gian thờ riêng nữa gọi là Đền Mẫu, nhìn ra phía Ao Rồng là hướng chính đông. Trong đền, trên tường bệ thờ thấy có treo một bức phù điêu sơn son thếp vàng, vẽ một bà công chúa hai bên có bốn tì nữ hầu quạt và hầu nước. Chắc là bà “Công chúa Trần triều” đã mở bến, lập chợ và chiêu dân lập ấp ở vùng tôi đây. Nhưng sao ngoài Chợ Bến (cũng có một tên nũa là Chợ Cống), ngay sát đê, làng tôi còn có hẳn một ngôi đền thờ bà quy mô hơn nhiều ?
Gia đình ông từ trông coi khu này cũng được bố trí ở phía bên tả ngôi đình nhưng dịch lên phía trước và ở thấp hơn. Đó là một khu nhà tranh, một sân vôi khá rộng ngay dưới sân đình, một cái ao tù con con. Trước cửa chùa còn có mấy thước đất để cho gia đình ông từ làm vườn trồng rau, trồng khoai. Phía sau khuôn viên là vườn cây ăn quả, chủ yếu là trồng nhãn. Có tới vài chục cây nhãn. Chỉ đằng sau chùa là có hai cây táo: một cây táo xoan và một cây táo bột. Xung quanh khuôn viên có trồng tre bao bọc, và mọc xen kẽ đây đó là những bụi trà vó, vú bò, rút rế…Khuôn viên đình, chùa và đền làng tôi phải nói là một khuôn viên đẹp. Nhưng đến thời chúng tôi biết ,thì không thấy có hội hè đình đám gì nữa. Thời kháng chiến chống Pháp, ít năm đầu vẫn còn giữ tục “Đăng cai”. Hộ nào đến phiên “Đăng cai” vẫn thấy đóng oản, mua chuối ra làm lễ ở ngoài chùa, ngoài đình. Sau làm lễ thì chia phần, xếp lên hai chiếc mâm thau, cho ông Ủn gánh đi phân phát cho các hộ trong làng theo tiêu chuẩn của từng nhà, nhiều ít khác nhau. Riêng nhà tôi, tuần rằm mồng một nào tôi cũng được nhận một góc oản và nửa quả chuối. Có vậy thôi mà cứ nghe thấy có tiếng chuông chùa thỉnh là đã thấy mong mong thinh thích. Nhưng sau, thì lệ này cũng bỏ. Từ đó khuôn viên này hình như không còn là của làng nữa. Nó chỉ là khuôn viên của riêng gia đình ông Nho Mại. Đến thời “Hợp Tác” thì ngôi đình và ngôi đền cũng bị phá. Còn lại có ba gian chùa, nhưng hoàn toàn hương lạnh khói tàn. Nó trở thành như một cái kho để tượng, nhện chăng và ẩm mốc.
Cư dân đầu tiên ở khu Đống Xộp này là bác Trương Hương. Khi ông anh làm lý trưởng thì ông em làm trương tuần. Khoảng năm 1932, bác Trương Hương đã sinh cô con gái đầu lòng Đỗ Thị Thư. Ấy vậy mà người làng vẫn cứ gọi bác là “Trương Hương” chứ không gọi là “ Trương Thư” theo nguyên tắc “kỵ húy” như với những người khác. Tôi rất thắc mắc về cái “biệt lệ” này. Bởi vì làng tôi có nhiều “ông trương” lắm, nhưng chẳng có “ông trương” nào gọi theo tên tục như thế cả: Ông Trương Chu, ông Trương Giai, ông Trương Tự, ông Trương Thuyết…đều là gọi theo tên con của các vị ấy cả. Cách gọi này quả cũng rất có lợi. Bởi vì nó làm cho bọn trẻ con chúng tôi khi chửi nhau hoặc khi trêu trọc nhau không lấy “tên tục” đâu ra mà réo. Chẳng hạn khi muốn trêu trọc chị Toàn, con gái ông Trương Chu thì chúng tôi hò nhau lại hát: “Ông Trương chu / Mà dù lông đít / Tôi xin một ít / Tôi đánh bẫy cò / Được cốc tôi cho / Được cò tôi lấy”. Chị ấy chẳng động lòng. Coi như không có chuyện gì xảy ra. Có thể là vì chị ấy người lớn nên kẻ cả không thèm chấp. Nhưng quan trọng hơn là “Chu” không phải là tên tục của bố chị ấy. Mà đã không chạm đến tên húy, tên tục thì chẳng việc gì phải động lòng. Tương tự khi muốn trêu thằng “Thành chột” con ông Trương Giai, chúng tôi lại hò nhau hát: “Ông Trương Giai / Mà dài lông đít / Tôi xin một ít / Tôi đánh bẫy cò / Được cốc tôi cho / Được cò tôi lấy”. Nó cũng chẳng động lòng. Nó bảo: Giai đếch phải là tên bố tao. Giai chỉ là tên anh tao thôi. Chúng bay không câm mồm đi, tao về tao gọi anh tao ra thì chúng bay liệu hồn !”… Nhưng với bác Trương Hương nhà tôi thì tại sao lại không thế ? Rất có thể chỉ là vì cái tên “Trương Hương” có vần có điệu, đọc thì thuận miệng, nghe thì êm tai, đã “mê hoặc” người làng tôi đến quên cả luật tục, nên cứ để nguyên vậy mà gọi chăng?
Có lẽ là ngay từ trước đã có sẵn một con đường của xóm đi vắt ngang qua Đống Xộp ra bờ Ao Rồng để ra đồng. Con đường này chính là cái ranh giới tự nhiên chia tách phần đất của nhà bác Trương Hương với phần đất của nhà tôi và nhà chú Đặng. Con đường này sau cũng là con đường đi chung của ba nhà để ra đồng. Ba nhà cũng làm chung một cái Cổng Đồng. Ngoài Cổng Đồng, một bên là Ao Rồng, một bên là Ao nhà ông Lý Vị. Cái đoạn hai bờ ao giáp nhau này rất hay bị vỡ, lầy lội không đi được. Vì thế ba anh em năm nào cũng cũng thấy bảo nhau bắc một cái cầu tre, dạng “cầu khỉ” có tay vịn để đi lại. Bác Trương Hương chính là người khai sơn phá thạch ở cái khu Đống Xộp này. Bác tân tre, bác trồng cây biến khu Đống Xộp này thành một xóm dân cư.
Phải ngót chục năm sau, đến cuối năm 1940, sau khi cưới vợ bố tôi mới ra đây ở. Mới ở được có vài hôm thì đã bị trộm khoét vách vào lấy hết đồ thờ. Bố tôi tức lắm và nghi ngay cho tên Nấng. Nấng là một tên trôm chuyên nghiệp nổi tiếng ở trong vùng. Ban ngày hắn thường trú ẩn trong Chùa Sùng. Ban đêm hắn mò xuống các làng ăn trộm. Người hắn nhỏ, dáng hắn nhanh và rất có tài lẩn trốn. Có người bị hắn lấy trộm nhiều lần đã lên tận Chùa Sùng tìm bắt hắn. Ấy vậy mà hắn cứ chạy ngách này, rẽ ngách kia chỉ một loáng đã biến đi đâu mất. Bố tôi thì khác. Ông mài một mũi giáo mà quyết tâm rình để đâm hắn. Rình đến đêm thứ ba thì quả nhiên thấy hắn làng vảng quay lại. Hắn đã ở bên kia bờ Rãnh Rồng, đang nhìn nhìn ngó ngó lấp ló muốn chui vào. Bố tôi thì căng thẳng đến nín thở, chỉ chờ hắn vào gần là đâm. Nhưng hình như có linh tính mách bảo. Hắn cứ định vào rồi chờn chợn lại lùi ra. Hai ba lần như thế và cuối cùng thì hắn bỏ cuộc. Bố tôi cũng lặng lẽ ra về. Sáng hôm sau thì bên nhà bác Trương Hương kêu mất một buồng chuối. Thì ra hắn chẳng hề bỏ cuộc. Hắn chỉ lẻn vào lối khác sang vườn nhà bác Trương Hương cắt gọn một buồng chuối cõng đi mà không ai hay biết gì cả.
Cũng năm ấy bà nội tôi ốm nặng. Ngày 28 tháng 10 âm lịch năm ấy, giỗ Cụ Chánh cũng chỉ làm “gọn nhẹ”. Sau khi đi ăn giỗ bố về, ông tôi cảm thấy người hâm hiu khó ở. Cụ có cho gọi các con đến hội ý. Cụ dặn: “Mẹ các anh đang ốm nặng. Bệnh tình này cũng không lâu nữa đâu. Phiên chợ Nam Sách đến, các anh phải đi tậu ngay một con trâu về, chuẩn bị dần đi là vừa”. Ngày hôm sau, bác Lý Khang và Bác Trương Hương đi chợ Nam Sách tậu trâu về. Bước sang ngày 1 tháng 11 thì ông tôi mất đột ngột. Thế là những thứ chuẩn bị cho đám tang mẹ lại dùng lo ma cho đám tang cha. Ông tôi mất năm ấy đang ở tuổi sáu mươi tư. Trong gia đình, không kể gái, ông tôi là thứ hai, lại đang là “Tiên chỉ” nên người làng thường gọi là cụ Tiên Hai. Nhưng tên tục của cụ là Đỗ Đình Đấng. Theo “Đỗ tộc gia phả” thì Cụ Chánh, tức là cụ thân sinh ra ông nội tôi, cũng có đến ba bà. Bà thứ nhất không có con nên các thế hệ sau hầu như quên biến. Bà thứ hai là Phương Thị Noãn, người Nam Gián, sinh được bà Ngoạn, ông Hào. Bà thứ ba là Đỗ Thị Trà (người làng, dòng Đỗ khác) sinh được Thang, Đấng, Trường, An, Điểm. Trong đó Thang và Điểm là gái. Các cô tôi sau này hay nói với chúng tôi “Ông nhà mình hiền lành và dễ chịu nhất nhà”. Ông cũng có nghiên cứu sách thuốc nhưng không hành nghề và thường nói với con cái rằng: “ Làm nghề thuốc phải giỏi, không giỏi được thì đừng làm”. Có lẽ ông tôi không có năng khiếu về nghề y nên không làm “ông lang” mà chỉ chuyên nghề làm ruộng. Nhưng ông là người yêu văn nghệ. Có thời kỳ ông đã thành lập gánh hát chèo và đi “lưu diễn” ở quanh vùng. Ông cũng là người rất quan tâm đên việc dạy dỗ con cháu. Khoảng những năm hai mươi của thế kỷ trước (thế ký XX), khi bố tôi đã chín mười tuổi, ông tôi đã xuống tận Kiến An mời một cụ cử tên là cụ Cử Đoan về nhà ngồi dạy học. Lớp học chỉ có bảy học trò con của cụ Đấng và cụ Trường. Cụ Đấng có: Vinh, Hương, Đăng. Cụ Trường có: Tùng, Bách, Thung, Thụ. Ông tôi dành hẳn ngôi nhà trên làm nơi thày ở và ngồi dạy học. Trước khi đón thày về, căn nhà này đã được tổng vệ sinh một cách cực kỳ cẩn thận. Nó được lau rửa rất kỹ càng đến từng chiếc đòn tay, từng đầu kèo, chân cột. Tất cả vật dụng từ đồ thờ, đến sập gụ, tủ chè, giường thày nằm đều bóng loáng. Thày còn mang theo một cậu con trai tên là Tuân. Rất có thể cái tên tôi cũng là do bố tôi “cóp” cái tên con của thày mà đặt cho tôi. Ông tôi cung phụng bố con cụ Cử Đoan cực kỳ tươm tất. Một ngày bốn bữa, hai bữa chính và hai bữa phụ. Hai bữa chính cơm rượu, dọn riêng mâm cho bố con thày ăn trên nhà. Hai bữa phụ là bữa sáng sớm và bữa đêm khuya thường ăn nhẹ bằng các món cháo: cháo khoai, chè bí, cháo gà, cháo cá….
Chương trình học cũng là Tam tự kinh và Tam thiên tự. Thày Đoan ngồi trên một chiếc sập gụ. Bảy học trò ngồi trên một chiếc chiếu trải dưới nền nhà. Thày Đoan điều hành lớp học bằng một cái roi mây rất dài. Thày Đoan rất dữ đòn nên bọn học trò sợ thày lắm. Sợ nhất là vào ngày chủ nhật. Buổi sáng thày thường cùng gia chủ đi thăm thú và xem xét “địa lý” ở ngoài đồng. Buổi chiều về thì tiến hành “tổng kiểm tra”. Thày viết tên các bài đã học vào những thẻ tre bỏ vào một cái ống. Học trò lần lượt lên rút thẻ bốc thăm. Rút phải bài nào thì đọc bài ấy. Không thuộc thì ăn đòn ngay lập tức. Thày bắt nằm sấp xuống. Chân và tay bị kéo căng ra để không giẫy đạp hoặc co cẳng mà chạy được. Thày cầm roi mây quất mạnh vào mông đến lằn lươn, rớm máu. Chẳng có học trò nào không phải nếm đòn của thày Đoan. Nhưng chú Thụ tôi bị ăn đòn nhiều hơn cả. Trận đòn này chưa khỏi thì trận đòn khác đã bồi thêm. Cho nên cái mông thành viêm sưng mưng mủ. Lại không giữ gìn vệ sinh, để ruồi bâu vào thành có bọ. Có lần chú ấy phải nhờ bố tôi khều bọ hộ và rửa ráy cho. Bảy học trò của cái lớp học này, về sau có đến năm người đều trở thành những “ông nọ bà kia” trong làng xã. Chỉ có bố tôi và chú Thụ, hai học trò bé nhất của lớp, chưa kịp thành “ông nọ bà kia” thì cách mạng tháng Tám đã nổ ra và thời thế cũng thay đổi.
Đúng mười ngày sau khi ông tôi mất thì bà tôi cũng qua đời. Sau khi bố mẹ đã mất cả, chú Đặng tôi tuy chưa có vợ, nhưng cũng đã có nhà riêng ở khu Đống Xộp rồi, nên chú ấy cũng ra ở riêng. Chú ở một mình. Mãi đến năm 1946, chú mới cưới vợ. Vợ chú là người làng Đột Lĩnh bên Nam Sách, hơn chú những bốn tuổi và đã có một đời chồng. chồng trước của thím là một chiến sĩ cộng sản và hy sinh từ những ngày còn trong “bóng tối”. Đám cưới của chú Đặng thì tôi cũng đã biên biết rồi. Tôi đã được các anh các chị lớn rủ rê ra phía cống làng đằng Xóm Bến để xem mặt cô dâu và chơi trò căng dây chắn lối. Chúng tôi ngồi chờ ở cổng nhà ông Trương Hồi, hau háu nhìn ra phía ngoài đê. Khi thấy đoàn người lố nhố bước lên đê là chúng tôi đã bắt đầu rục rịch. Chúng tôi theo dõi đoàn người đi vòng vèo uốn lượn theo con đường mòn từ trên đê đi xuống và đi vào làng. Đoàn rước dâu bắt đầu đến bờ ao Ba Sào thì chúng tôi hò nhau ra căng dây chắn lối. Cứ hai đứa một dây. Mỗi đứa cầm một đầu dây căng ngang qua đường làng. Đoàn rước dâu đến dây nào cũng cho tiền để chúng tôi bỏ dây ra. Cũng có những đôi rất láu cá, nhân tiền xong họ lại rủ nhau chạy nhanh ra phía cuối đầu kia, căng dây tiếp. Thế là họ lại được nhận thêm tiền. Còn tôi vốn “ngây ngô chúa tầu” từ nhỏ nên nhận được đồng tiền thì đã hí hửng chạy về khoe mẹ: “ Mẹ ơi ! Con có tiền đây này !”.
Bố tôi cũng mãi đến năm 27 tuổi mới lấy vợ. Bố tôi còn nhớ rất cụ thể là đám cưới được tổ chức vào ngày 20 tháng 10 âm lịch (1940). Tiếng là lớn xác nhưng sang nhà vợ thì xấu hổ không cả dám đi đái. Thành thử cứ phải cố nhịn. Chỉ muốn nhanh nhanh chong chóng được “rước dâu” về để “đỡ bí” mà nào có được. Các cụ cứ con cà con kê mãi rồi mới cho rước dâu. Đã thế vừa ra khỏi cổng, mới đi lên đê được một đoạn, thì ông trưởng tộc họ vũ (bậc đàn anh, con ông bác của mẹ tôi) đã lập một cái án thư chặn lối. Đám cưới lại phải dừng lại để “điều đình” về cái giá để mở lối cho đi. Cuối cùng phải chi đủ một đồng thì “ông anh” mới chấp nhận. Về đến nhà việc đầu tiên là bố tôi chạy ra vườn rồi mới vào làm lễ tơ hồng. Bố tôi bảo đó là lần “nhịn đái” kỷ lục nhất. Nhưng cũng nhờ “tính bức xúc của cái khối nước thải chứa trong bụng” ấy mà quên cả xấu hổ. Bố tôi kể chuyện này ai cũng phì cười. Bác Trương Hương tiếp luôn: “Tôi cũng thế, lên nhà vợ cứ ngồi chết dí ở một góc giường, ai bảo làm gì thì làm theo như cái máy. Chú Hội Mậu (em con ông chú của bố tôi) thì láu táu chen vào: “Các bác lấy vợ khi đã lớn tuổi rồi còn đỡ chán. Em lấy vợ sớm, hãi lắm. Em chỉ sợ đến tối là bố lại bắt vào buồng ngủ chung với vợ. Ban ngày mình còn đi trốn được, chứ ban đêm thì biết trốn đi đâu. Thế là cứ cơm nước xong, ông cụ lại cầm roi gọi về bắt phải vào buồng, rồi ông cụ khóa cửa ngoài lại. Em cứ phải đứng như trời trồng ở trong buồng. Mãi sau rồi cũng phải lần vào giường nằm nín thở sát mép ngoài giường. Cô ấy chừng như cũng sợ cứ nằm nép mình tận sát vách”. Mọi người cùng cười ồ và hỏi đùa “ Thế sau làm thế nào mà lại gần nhau được mà đẻ lắm con thế?”.Chú Hội Mậu lại láu táu trả lời môt cách rất thật thà “Em cũng không biết nữa. Nhưng có lẽ là khi ngủ say thì tự nhiên nó hút vào nhau. Rồi dần dần thấy quen, thấy ấm, thấy thích. Đến lúc ấy mới thành vợ chồng được”.
Nhưng bác Trương Hương và bố tôi thì khác. Cứ lấy vợ là ông tôi cho ra ở riêng ngay. Bởi vì ông tôi, như có lần tôi đã kể, có tới ba bà vợ đồng thê. Mỗi bà đều có một “tư dinh” và nằm gần như song song và cách đều trên bờ con sông Đào. Ông tôi ở với bà “chính thất phu nhân” Lê Thị Áng, người Nam Gián Đông, ở khu trung tâm. Phía bên tả, cách hai nhà là “tư dinh” của bà “trắc thất phu nhân” Vũ Thị Huyền, người Ninh Xá. Phía bên hữu, cũng cách hai nhà là “tư dinh” của bà “thứ thất phu nhân” Đoàn Thị Hương, người Nội Hưng, Nam Sách. Bà nội tôi-Lê Thị Áng, cứ đều đặn bốn năm sinh một lần. Không hiểu là ông bà tôi “xây dựng” với nhau từ năm nào. Nhưng cứ theo “sử sách” còn ghi lại được thì trong khoảng từ năm 1905 đến năm 1921 bà tôi sinh cả thảy năm lần được bốn chàng trai: Vinh, Hương, Đăng, Đặng. Duy nhất có một lần sinh con gái vào năm 1917 thì lại không nuôi được. Có lẽ vì vừa cần người giúp việc nhà nông lại vừa khát con gái nên bà nội tôi nuôi những ba cô con gái nuôi. Sau này có hai cô đi lấy chồng thiên hạ, không thấy đi lại gì nữa nên chúng tôi không biết gì về tình hình các cô ấy cả. Chỉ duy nhất có cô Đỡ lấy ông Trương Hồi người cùng làng, sinh được một trai, một gái thì cũng mất sớm. Nhưng các anh chị ấy vẫn đi lại bình thường như anh em bên ngoại.
Năm 1925, bác cả Vinh nhà tôi đã sinh cô con gái đầu lòng Đỗ Thị Khang. Khoảng năm 1930, bác Đỗ Đình Vinh làm lý trưởng làng. Từ đó mới có tên là Lý Khang. Theo luật tục, khuôn đất ông tôi ở tất nhiên phải bàn giao cho con trưởng. Bà hai, bà ba mỗi bà chỉ có một con trai, nên cũng không phải lo gì về khoản “đất ở”. Duy chỉ có bà cả, còn những ba cậu con trai nữa là phải lo đến chuyện “san hộ”. Thế là ông tôi phải cắt ruộng đổi lấy ba sào đất vừa gò vừa ruộng ở khu Đống Xộp đình làng cũ để “san hộ” cho ba cậu con trai Hương, Đăng, Đặng.
Khu Đống Xộp này tương truyền có một vị thần đất to lắm. Ngài thường hay xuất hiện vào những đêm mùa xuân mưa phùn gió bấc. Lần thì người này thấy ngài đi từ Đống Xộp ra đồng. Lần thì người kia lại thấy ngài đi từ ngoài đồng trở về Đống Xộp rồi mất hút. Người ta bảo đó là những lần ngài đi “công tác” về. Theo những người “đã từng chứng kiến” kể lại thì ngài to bằng cái nồi gánh nước (nồi hông), sáng xanh, ngài đi đến gần thì trông rõ cả mũ cánh chuồn, xiêm y, hia hài bệ vệ lắm. Tôi được nghe kể nhiều về ngài nhưng chưa từng trông thấy ngài bao giờ. Nhưng chắc mọi người đều tin là “linh nghiệm” nên khi ra ở khu đất này mẹ tôi đã cho xây riêng một ngôi điện thờ vị thần đất này. Ngôi điện này có cái bệ khá cao. Nhưng lòng điện nhỏ thôi: trong cùng là cái bệ thờ có đặt một chiếc mũ ông công, dưới có cái bát hương với vài thứ đồ thờ sơ sài. Tiếp đến là một khoảng không gian chỉ đặt vừa một mâm cỗ. Mái điện không lợp ngói mà cuốn gạch rồi chát kín kiểu như người ta cuốn mui bể nước. Hai góc mái phía sau xây bít đốc lên để bằng. Hai góc mái phía trước có làm những đầu kèo giả uốn cong như những đao đình. Gần đây tôi về xem lại ngôi điện mới để ý thấy trên đỉnh điện có đề ba chữ Hán, nếu đọc xuôi như chúng ta đọc chữ quốc ngữ ngày nay, từ phía tay trái sang phía tay phải, thì trật tự của ba chữ đó là 在如敬 (tại như kính). Song song hai bên cửa điện cũng thấy ghi một đôi câu đối, mỗi vế năm chữ. Vế bên tay trái là: 土旺人常旺 (thổ vượng nhân thường vượng) và vế phía bên tay phải là:神安宅自安 (thần an trạch tự an). Ngôi điện tuy nhỏ nhưng trông thanh thoát và tôn nghiêm. Có lẽ đây chỉ là ngôi điện thờ riêng của cư dân Đống Xộp. Tôi không thấy người làng vào cúng khấn ở ngôi điện này bao giờ. Nhưng nhà bác Trương Hương, nhà tôi và nhà chú Đặng thì tuần rằm mồng một nào và mỗi khi nhà có việc cúng giỗ đều thấy có mang lễ ra điện thờ để cầu cúng ngài. Khi thì cũng bằng cỗ mặn, cũng có khi thì chỉ cúng bằng hoa nghi và quả phẩm thôi. Những năm tôi đã nhơn nhớn, thường cứ mỗi lần chuẩn bị ra điện làm lễ, bố tôi lại sai tôi ra dọn dẹp trước. Tôi phải lau chùi đồ thờ và quét dọn lòng điện cho sạch sẽ. Đó cũng là lúc mà bố tôi áo lương khăn xếp chỉnh tề rồi bưng mâm cỗ cúng sang điện. Ông cụ đặt mâm cỗ xuống lòng điện, kiểm kê các thứ… rồi thắp hương, rót rượu xong, thì ra đứng trước cửa điện lầm rầm khấn vái. Tôi chưa bao giờ nghe rõ và biết được nội dung của những lời khấn ấy. Chỉ thấy ông cụ lồng hai bàn tay vào nhau chắp trước ngực, đứng nghiêm trang lầm rầm khấn, một lúc thì lại vái mấy chiếc, rồi lại đứng nghiêm lầm rầm khấn. Trong khi khấn, thỉnh thoảng lại thấy è…è… mấy cái, hình như là để ngắt giọng và lấy hơi…Cũng có thể là để nghĩ những câu khấn tiếp. Độ vài điệp khúc như thế thì kết thúc. Ông cụ về, còn tôi thì phải ở lại để canh mèo. Khoảng độ tàn hương thì ông cụ mới ra xin lễ, bưng về.
Ngay cạnh Đống xộp, về phía Bắc có một cái ao làng khá to gọi là Ao Rồng. Người làng tôi vẫn giải thích lai lịch cái tên Ao Rồng là vì trước đây có thời kỳ loạn lạc gì ấy, người làng tôi đã phải đem các thứ đồ thờ trong đình ra chôn giấu ở đây. Từ đó mới có tên là Ao Rồng. Nhưng nhiều người làng tôi cho biết chính ngôi đình cũ của làng cũng xây ngay trên khu Đống Xộp này. Người ta còn cho biết rất cụ thể vị trí của nền đình nằm trên khuôn đất mà bác Trương Hương tôi hiện đang ở. Quả có như vậy thật. Bởi vì ngay trước cổng nhà tôi và nhà bác Trương Hương vẫn còn một thửa đất rất vuông vắn, làng giao cho ông Ủn là người làm “mới” trước đây của làng sử dụng. Bà Ủn chuyên cho cấy khoai bông, khoai ngứa để lấy dọc khoai nuôi lợn và dải khoai nấu ốc. Nhưng người làng tôi không ai gọi cái thửa ruộng cấy khoai này là “ruộng khoai” cả, mà vẫn gọi nó là “sân đình”. “ Ra Sân Đình bảo bà Ủn bán cho mấy bó dọc khoai”; “Ra Sân Đình bảo bà Ủn bán cho mớ dải khoai ”…Chính cách gọi tên không chính xác này của người làng tôi lại thành ra rất văn hóa. Nó gọi được cả quá khứ. Nó gợi lên được sự biến thiên của đời…đầy “bãi bể nương dâu”…
Khu đình mới của làng tôi lại chuyển ra vị trí khác ở phía tây làng cách khu đình cũ chừng trăm mét. Đó là một khu đất cao và tách biệt hắn ra với làng. Tất cả các công trình văn hóa tâm linh tín ngưỡng của làng tôi đều được xây dựng ở trên khu đất này. Chính giữa khuôn viên là ngôi “đình mới”, kiến trúc theo lối “chữ đinh ngắn đuôi” gồm một gian cung và ba gian tiền tế. Phía bên hữu và dịch lên phía trước là ba gian chùa, mở cửa dọc phía đầu hồi để có cùng hướng Bắc-Nam với ngôi đình. Cái cửa dọc này quanh năm đóng im ỉm. Trước cửa chùa có một chậu cây cảnh gọi là cây đồi mồi, có lá to như lá vối, lại lốm đốm nhiều mầu trông rất sặc sỡ, không khác gì một chậu hoa vậy. Từ phía sân đình đi lên chỉ thấy mở một cửa nách hẹp để đi vào chùa. Phía bên tả và lùi hẳn về phía sau lại có một gian thờ riêng nữa gọi là Đền Mẫu, nhìn ra phía Ao Rồng là hướng chính đông. Trong đền, trên tường bệ thờ thấy có treo một bức phù điêu sơn son thếp vàng, vẽ một bà công chúa hai bên có bốn tì nữ hầu quạt và hầu nước. Chắc là bà “Công chúa Trần triều” đã mở bến, lập chợ và chiêu dân lập ấp ở vùng tôi đây. Nhưng sao ngoài Chợ Bến (cũng có một tên nũa là Chợ Cống), ngay sát đê, làng tôi còn có hẳn một ngôi đền thờ bà quy mô hơn nhiều ?
Gia đình ông từ trông coi khu này cũng được bố trí ở phía bên tả ngôi đình nhưng dịch lên phía trước và ở thấp hơn. Đó là một khu nhà tranh, một sân vôi khá rộng ngay dưới sân đình, một cái ao tù con con. Trước cửa chùa còn có mấy thước đất để cho gia đình ông từ làm vườn trồng rau, trồng khoai. Phía sau khuôn viên là vườn cây ăn quả, chủ yếu là trồng nhãn. Có tới vài chục cây nhãn. Chỉ đằng sau chùa là có hai cây táo: một cây táo xoan và một cây táo bột. Xung quanh khuôn viên có trồng tre bao bọc, và mọc xen kẽ đây đó là những bụi trà vó, vú bò, rút rế…Khuôn viên đình, chùa và đền làng tôi phải nói là một khuôn viên đẹp. Nhưng đến thời chúng tôi biết ,thì không thấy có hội hè đình đám gì nữa. Thời kháng chiến chống Pháp, ít năm đầu vẫn còn giữ tục “Đăng cai”. Hộ nào đến phiên “Đăng cai” vẫn thấy đóng oản, mua chuối ra làm lễ ở ngoài chùa, ngoài đình. Sau làm lễ thì chia phần, xếp lên hai chiếc mâm thau, cho ông Ủn gánh đi phân phát cho các hộ trong làng theo tiêu chuẩn của từng nhà, nhiều ít khác nhau. Riêng nhà tôi, tuần rằm mồng một nào tôi cũng được nhận một góc oản và nửa quả chuối. Có vậy thôi mà cứ nghe thấy có tiếng chuông chùa thỉnh là đã thấy mong mong thinh thích. Nhưng sau, thì lệ này cũng bỏ. Từ đó khuôn viên này hình như không còn là của làng nữa. Nó chỉ là khuôn viên của riêng gia đình ông Nho Mại. Đến thời “Hợp Tác” thì ngôi đình và ngôi đền cũng bị phá. Còn lại có ba gian chùa, nhưng hoàn toàn hương lạnh khói tàn. Nó trở thành như một cái kho để tượng, nhện chăng và ẩm mốc.
Cư dân đầu tiên ở khu Đống Xộp này là bác Trương Hương. Khi ông anh làm lý trưởng thì ông em làm trương tuần. Khoảng năm 1932, bác Trương Hương đã sinh cô con gái đầu lòng Đỗ Thị Thư. Ấy vậy mà người làng vẫn cứ gọi bác là “Trương Hương” chứ không gọi là “ Trương Thư” theo nguyên tắc “kỵ húy” như với những người khác. Tôi rất thắc mắc về cái “biệt lệ” này. Bởi vì làng tôi có nhiều “ông trương” lắm, nhưng chẳng có “ông trương” nào gọi theo tên tục như thế cả: Ông Trương Chu, ông Trương Giai, ông Trương Tự, ông Trương Thuyết…đều là gọi theo tên con của các vị ấy cả. Cách gọi này quả cũng rất có lợi. Bởi vì nó làm cho bọn trẻ con chúng tôi khi chửi nhau hoặc khi trêu trọc nhau không lấy “tên tục” đâu ra mà réo. Chẳng hạn khi muốn trêu trọc chị Toàn, con gái ông Trương Chu thì chúng tôi hò nhau lại hát: “Ông Trương chu / Mà dù lông đít / Tôi xin một ít / Tôi đánh bẫy cò / Được cốc tôi cho / Được cò tôi lấy”. Chị ấy chẳng động lòng. Coi như không có chuyện gì xảy ra. Có thể là vì chị ấy người lớn nên kẻ cả không thèm chấp. Nhưng quan trọng hơn là “Chu” không phải là tên tục của bố chị ấy. Mà đã không chạm đến tên húy, tên tục thì chẳng việc gì phải động lòng. Tương tự khi muốn trêu thằng “Thành chột” con ông Trương Giai, chúng tôi lại hò nhau hát: “Ông Trương Giai / Mà dài lông đít / Tôi xin một ít / Tôi đánh bẫy cò / Được cốc tôi cho / Được cò tôi lấy”. Nó cũng chẳng động lòng. Nó bảo: Giai đếch phải là tên bố tao. Giai chỉ là tên anh tao thôi. Chúng bay không câm mồm đi, tao về tao gọi anh tao ra thì chúng bay liệu hồn !”… Nhưng với bác Trương Hương nhà tôi thì tại sao lại không thế ? Rất có thể chỉ là vì cái tên “Trương Hương” có vần có điệu, đọc thì thuận miệng, nghe thì êm tai, đã “mê hoặc” người làng tôi đến quên cả luật tục, nên cứ để nguyên vậy mà gọi chăng?
Có lẽ là ngay từ trước đã có sẵn một con đường của xóm đi vắt ngang qua Đống Xộp ra bờ Ao Rồng để ra đồng. Con đường này chính là cái ranh giới tự nhiên chia tách phần đất của nhà bác Trương Hương với phần đất của nhà tôi và nhà chú Đặng. Con đường này sau cũng là con đường đi chung của ba nhà để ra đồng. Ba nhà cũng làm chung một cái Cổng Đồng. Ngoài Cổng Đồng, một bên là Ao Rồng, một bên là Ao nhà ông Lý Vị. Cái đoạn hai bờ ao giáp nhau này rất hay bị vỡ, lầy lội không đi được. Vì thế ba anh em năm nào cũng cũng thấy bảo nhau bắc một cái cầu tre, dạng “cầu khỉ” có tay vịn để đi lại. Bác Trương Hương chính là người khai sơn phá thạch ở cái khu Đống Xộp này. Bác tân tre, bác trồng cây biến khu Đống Xộp này thành một xóm dân cư.
Phải ngót chục năm sau, đến cuối năm 1940, sau khi cưới vợ bố tôi mới ra đây ở. Mới ở được có vài hôm thì đã bị trộm khoét vách vào lấy hết đồ thờ. Bố tôi tức lắm và nghi ngay cho tên Nấng. Nấng là một tên trôm chuyên nghiệp nổi tiếng ở trong vùng. Ban ngày hắn thường trú ẩn trong Chùa Sùng. Ban đêm hắn mò xuống các làng ăn trộm. Người hắn nhỏ, dáng hắn nhanh và rất có tài lẩn trốn. Có người bị hắn lấy trộm nhiều lần đã lên tận Chùa Sùng tìm bắt hắn. Ấy vậy mà hắn cứ chạy ngách này, rẽ ngách kia chỉ một loáng đã biến đi đâu mất. Bố tôi thì khác. Ông mài một mũi giáo mà quyết tâm rình để đâm hắn. Rình đến đêm thứ ba thì quả nhiên thấy hắn làng vảng quay lại. Hắn đã ở bên kia bờ Rãnh Rồng, đang nhìn nhìn ngó ngó lấp ló muốn chui vào. Bố tôi thì căng thẳng đến nín thở, chỉ chờ hắn vào gần là đâm. Nhưng hình như có linh tính mách bảo. Hắn cứ định vào rồi chờn chợn lại lùi ra. Hai ba lần như thế và cuối cùng thì hắn bỏ cuộc. Bố tôi cũng lặng lẽ ra về. Sáng hôm sau thì bên nhà bác Trương Hương kêu mất một buồng chuối. Thì ra hắn chẳng hề bỏ cuộc. Hắn chỉ lẻn vào lối khác sang vườn nhà bác Trương Hương cắt gọn một buồng chuối cõng đi mà không ai hay biết gì cả.
Cũng năm ấy bà nội tôi ốm nặng. Ngày 28 tháng 10 âm lịch năm ấy, giỗ Cụ Chánh cũng chỉ làm “gọn nhẹ”. Sau khi đi ăn giỗ bố về, ông tôi cảm thấy người hâm hiu khó ở. Cụ có cho gọi các con đến hội ý. Cụ dặn: “Mẹ các anh đang ốm nặng. Bệnh tình này cũng không lâu nữa đâu. Phiên chợ Nam Sách đến, các anh phải đi tậu ngay một con trâu về, chuẩn bị dần đi là vừa”. Ngày hôm sau, bác Lý Khang và Bác Trương Hương đi chợ Nam Sách tậu trâu về. Bước sang ngày 1 tháng 11 thì ông tôi mất đột ngột. Thế là những thứ chuẩn bị cho đám tang mẹ lại dùng lo ma cho đám tang cha. Ông tôi mất năm ấy đang ở tuổi sáu mươi tư. Trong gia đình, không kể gái, ông tôi là thứ hai, lại đang là “Tiên chỉ” nên người làng thường gọi là cụ Tiên Hai. Nhưng tên tục của cụ là Đỗ Đình Đấng. Theo “Đỗ tộc gia phả” thì Cụ Chánh, tức là cụ thân sinh ra ông nội tôi, cũng có đến ba bà. Bà thứ nhất không có con nên các thế hệ sau hầu như quên biến. Bà thứ hai là Phương Thị Noãn, người Nam Gián, sinh được bà Ngoạn, ông Hào. Bà thứ ba là Đỗ Thị Trà (người làng, dòng Đỗ khác) sinh được Thang, Đấng, Trường, An, Điểm. Trong đó Thang và Điểm là gái. Các cô tôi sau này hay nói với chúng tôi “Ông nhà mình hiền lành và dễ chịu nhất nhà”. Ông cũng có nghiên cứu sách thuốc nhưng không hành nghề và thường nói với con cái rằng: “ Làm nghề thuốc phải giỏi, không giỏi được thì đừng làm”. Có lẽ ông tôi không có năng khiếu về nghề y nên không làm “ông lang” mà chỉ chuyên nghề làm ruộng. Nhưng ông là người yêu văn nghệ. Có thời kỳ ông đã thành lập gánh hát chèo và đi “lưu diễn” ở quanh vùng. Ông cũng là người rất quan tâm đên việc dạy dỗ con cháu. Khoảng những năm hai mươi của thế kỷ trước (thế ký XX), khi bố tôi đã chín mười tuổi, ông tôi đã xuống tận Kiến An mời một cụ cử tên là cụ Cử Đoan về nhà ngồi dạy học. Lớp học chỉ có bảy học trò con của cụ Đấng và cụ Trường. Cụ Đấng có: Vinh, Hương, Đăng. Cụ Trường có: Tùng, Bách, Thung, Thụ. Ông tôi dành hẳn ngôi nhà trên làm nơi thày ở và ngồi dạy học. Trước khi đón thày về, căn nhà này đã được tổng vệ sinh một cách cực kỳ cẩn thận. Nó được lau rửa rất kỹ càng đến từng chiếc đòn tay, từng đầu kèo, chân cột. Tất cả vật dụng từ đồ thờ, đến sập gụ, tủ chè, giường thày nằm đều bóng loáng. Thày còn mang theo một cậu con trai tên là Tuân. Rất có thể cái tên tôi cũng là do bố tôi “cóp” cái tên con của thày mà đặt cho tôi. Ông tôi cung phụng bố con cụ Cử Đoan cực kỳ tươm tất. Một ngày bốn bữa, hai bữa chính và hai bữa phụ. Hai bữa chính cơm rượu, dọn riêng mâm cho bố con thày ăn trên nhà. Hai bữa phụ là bữa sáng sớm và bữa đêm khuya thường ăn nhẹ bằng các món cháo: cháo khoai, chè bí, cháo gà, cháo cá….
Chương trình học cũng là Tam tự kinh và Tam thiên tự. Thày Đoan ngồi trên một chiếc sập gụ. Bảy học trò ngồi trên một chiếc chiếu trải dưới nền nhà. Thày Đoan điều hành lớp học bằng một cái roi mây rất dài. Thày Đoan rất dữ đòn nên bọn học trò sợ thày lắm. Sợ nhất là vào ngày chủ nhật. Buổi sáng thày thường cùng gia chủ đi thăm thú và xem xét “địa lý” ở ngoài đồng. Buổi chiều về thì tiến hành “tổng kiểm tra”. Thày viết tên các bài đã học vào những thẻ tre bỏ vào một cái ống. Học trò lần lượt lên rút thẻ bốc thăm. Rút phải bài nào thì đọc bài ấy. Không thuộc thì ăn đòn ngay lập tức. Thày bắt nằm sấp xuống. Chân và tay bị kéo căng ra để không giẫy đạp hoặc co cẳng mà chạy được. Thày cầm roi mây quất mạnh vào mông đến lằn lươn, rớm máu. Chẳng có học trò nào không phải nếm đòn của thày Đoan. Nhưng chú Thụ tôi bị ăn đòn nhiều hơn cả. Trận đòn này chưa khỏi thì trận đòn khác đã bồi thêm. Cho nên cái mông thành viêm sưng mưng mủ. Lại không giữ gìn vệ sinh, để ruồi bâu vào thành có bọ. Có lần chú ấy phải nhờ bố tôi khều bọ hộ và rửa ráy cho. Bảy học trò của cái lớp học này, về sau có đến năm người đều trở thành những “ông nọ bà kia” trong làng xã. Chỉ có bố tôi và chú Thụ, hai học trò bé nhất của lớp, chưa kịp thành “ông nọ bà kia” thì cách mạng tháng Tám đã nổ ra và thời thế cũng thay đổi.
Đúng mười ngày sau khi ông tôi mất thì bà tôi cũng qua đời. Sau khi bố mẹ đã mất cả, chú Đặng tôi tuy chưa có vợ, nhưng cũng đã có nhà riêng ở khu Đống Xộp rồi, nên chú ấy cũng ra ở riêng. Chú ở một mình. Mãi đến năm 1946, chú mới cưới vợ. Vợ chú là người làng Đột Lĩnh bên Nam Sách, hơn chú những bốn tuổi và đã có một đời chồng. chồng trước của thím là một chiến sĩ cộng sản và hy sinh từ những ngày còn trong “bóng tối”. Đám cưới của chú Đặng thì tôi cũng đã biên biết rồi. Tôi đã được các anh các chị lớn rủ rê ra phía cống làng đằng Xóm Bến để xem mặt cô dâu và chơi trò căng dây chắn lối. Chúng tôi ngồi chờ ở cổng nhà ông Trương Hồi, hau háu nhìn ra phía ngoài đê. Khi thấy đoàn người lố nhố bước lên đê là chúng tôi đã bắt đầu rục rịch. Chúng tôi theo dõi đoàn người đi vòng vèo uốn lượn theo con đường mòn từ trên đê đi xuống và đi vào làng. Đoàn rước dâu bắt đầu đến bờ ao Ba Sào thì chúng tôi hò nhau ra căng dây chắn lối. Cứ hai đứa một dây. Mỗi đứa cầm một đầu dây căng ngang qua đường làng. Đoàn rước dâu đến dây nào cũng cho tiền để chúng tôi bỏ dây ra. Cũng có những đôi rất láu cá, nhân tiền xong họ lại rủ nhau chạy nhanh ra phía cuối đầu kia, căng dây tiếp. Thế là họ lại được nhận thêm tiền. Còn tôi vốn “ngây ngô chúa tầu” từ nhỏ nên nhận được đồng tiền thì đã hí hửng chạy về khoe mẹ: “ Mẹ ơi ! Con có tiền đây này !”.
KHÚC VIẾT THÊM
Khi tôi vừa viết xong phần này thì có điện của chú út mời về dự ăn tết ông Công ông Táo. Nhưng lý do quan trọng hơn mà chú ấy phải mời tôi về là cũng ngày hôm nay, nhân dịp tiễn Táo quân về trời chú ấy muốn chuyển Ban thờ gia tiên ra nhà mới. Năm ngoái chú ấy đi lao động Hàn Quốc về có xây căn nhà hai tầng ra mặt đường cho thoáng mát hơn. Bà mẹ kế tôi, không hợp với con dâu nên nhất định không chịu ra ở với con trai: “Tao không phải đi đâu hết. Tao cứ nhà tao tao ở”. Và bà cụ ở nhà một mình thật. Nhưng trước đây chừng một tháng bà cụ bị ngã gãy xương hông, phải nằm tại vị hàng tháng. Bất dắc dĩ bà cụ phải ra ở với con trai vậy. Vì thế mới có chuyện hôm nay chuyển bàn thờ gia tiên ra nhà mới. Ngôi nhà hương hỏa tổ tiên mà bố mẹ tôi ra ở riêng cuối năm 1940, sau tròn bảy mươi năm và sáu lần xây đi dựng lại, đến bây giờ lại đóng cửa để đấy, chờ có người mua thì chuyển sang chủ khác. Lớp người đầu tiên ra xóm Đống Xộp ở chỉ còn lại duy nhất có bà Đặng, tức là bà thím ruột tôi. Năm nay bà cụ đã chín mươi nhăm tuổi. Tâm trí đã lẩn thẩn quên quên nhớ nhớ. Chuyện trò cũng chẳng đâu vào với đâu. Câu trước câu sau chẳng ăn nhập gì với nhau. Nhưng tội nghiệp nhất là cái lưng của bà cụ, nó cong gập như hình một chữ u, nên dáng đi của bà cụ trông rất quái dị: Cái chân bà cụ ngón cái tõe ra như dạng chân của người Việt cổ từ thời Giao Chỉ. Cái lưng thì còng gập xuống mà cái đầu lại phải cố ngẩng lên cho cái mặt khỏi cong gập lại. Cái dáng người quái dị ấy lại sống rất cô đơn, lủi thủi như riêng mình một thế giới. Đó không còn là thế giới của loài người, nhưng cũng chưa phải là thế giới của những âm hồn. Cái Cổng Đồng xưa kia là dìa làng thì nay đã thành giữa làng rồi.Tre làng bây giờ người ta đã phá hết. Nhưng riêng Cổng Đồng thì vẫn còn lại một khóm tre. Vì thế mà nó càng gợi nhớ. Thưở bé, ở chỗ này, chính là nơi mỗi buổi chiều muộn, tôi lại ra đây ngồi ngóng mẹ về. Khi đã mất mẹ, thì tôi lại ra đây ngóng bố. Những buổi chiều hanh heo cuối năm, người ta hay đốt cỏ núi cho cỏ già cháy đi, chờ sang xuân cho mầm mới mọc lên. Công việc này ở vùng tôi gọi là “lái núi”. Cứ đến mùa hanh heo là bọn trẻ con chúng tôi lại rú nhau ra Cổng Đồng, ngó lên phía Chùa Sùng, núi Chóp Chài, núi Ông Sư… để xem người ta “lái núi”. Những ngọn lửa cứ cháy ngoằn ngoèo leo dần từ chân núi lên đến ngọn. Chỉ có vậy thôi mà năm nào bọn tôi cũng ngồi ở Cổng Đồng dõi xem không biết chán. Dường như trong những ngọn lửa bập bùng và đang rồng rắn nhau bò lên núi kia có một cái gì đầy bí ẩn luôn khơi gợi và kích thích trí tò mò của bọn trẻ chúng tôi.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét