Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Tư, 26 tháng 1, 2011

Tản mạn chuyện " Ông Công ông Táo"


Theo tín ngưỡng cổ truyền của người Việt, ngày 23 tháng Chạp 23/12 Âm lịch hàng năm được coi là ngày Tết ông Công ông Táo. Theo đó, ngày này là ngày Táo quân lên chầu trời để báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế những việc thiện ác, hay dở, tốt xấu thực mục sở thị trong một năm của từng gia đình mà các ông cai quản ở hạ giới.
Câu hỏi đặt ra là ông Táo và ông Công là một hay là hai người khác nhau? Là hai thì Tết ông Công hay Tết ông Táo? Mà tại sao dân gian chỉ thấy ông táo lên chầu trời mà không thấy ông Công “ đi công cán “

Từ một truyền thuyết dân gian...
Truyền thuyết kể rằng: Ngày xưa có hai vợ chồng nhà kia, chồng là Trọng Cao và vợ là Thị Nhi. Tuy nghèo khó, nhưng họ sống với nhau rất hoà thuận, hạnh phúc. Hiềm một nỗi lấy nhau đã lâu vẫn không có con, nên cả hai đều lấy làm buồn phiền và đó cũng là nguyên nhân dẫn đến những chuyện lục đục!

Một lần, trong khi lời qua tiếng lại vì một chuyện không đâu, Trọng Cao có trót lỡ tay đánh vợ một cái! Giận chồng, Thị Nhi bỏ nhà ra đi và trong khi lưu lạc nơi đất khách quê người, Thị Nhi đã gặp Phạm Lang.
Thông cảm hoàn cảnh của nhau, hai người yêu thương nhau rồi thành vợ thành chồng....

Trở lại với Trọng Cao, sau khi Thị Nhi bỏ đi, Trọng Cao rất hối hận. Bán hết gia tư, điền sản lấy tiền làm lộ phí, Trọng Cao đã đi đến rất nhiều nơi, tìm hỏi rất nhiều người, cho đến khi tiền lưng đã cạn, phải lần hồi bằng nghề hành khất mà vẫn không thấy tăm hơi Thị Nhi đâu cả.
Cho đến một lần, Trọng Cao vào một nhà nọ xin ăn, không ngờ người mang cơm ra cho lại là Thị Nhi. Hai vợ chồng nhận ra nhau mừng mừng tủi tủi, nhưng cũng thật trớ trêu, bởi danh chính ngôn thuận lúc này Thị Nhi đã là vợ của Phạm Lang.
Trong khi còn chưa biết cư xử làm sao cho vẹn cả đôi bề, lại sợ Phạm Lang về bắt gặp thì biết ăn nói làm sao, Thị Nhi liền bảo Trọng Cao tạm ẩn vào trong thùng rạ.
Đi đường mệt mỏi, lại được cơm no, rượu say, nên vừa đặt lưng xuống, Trọng Cao đã ngủ say như chết, chẳng còn biết trời đất gì nữa. Không may đêm đó có gió to, than lửa ở bếp bén vào thùng rạ thiêu rụi cả Trọng Cao và cái bếp.
Khi nghe mọi người xung quanh hô hoán, Thị Nhi và Phạm Lang giật mình chạy ra thì chỉ còn biết đứng nhìn. Nghĩ vì mình mà chồng cũ phải chết, trong cơn đau đớn, Thị Nhi bèn nhảy vào đống lửa chết theo.
Thấy thế, Phạm Lang cũng nhảy vào để được cùng chết theo vợ...

" Lại có những dị bản thuộc tình tiết ở phần cuối:... Một lần Trọng Cao vào một nhà nọ xin ăn, không ngờ lại đúng là nhà Thị Nhi. Hai vợ chồng nhận ra nhau mừng mừng tủi tủi, nghẹn ngào không nói nên lời. Sau một hồi hàn huyên,Thị Nhi bảo Trọng Cao đi nghỉ, còn mình thì lo làm cơm để thết Trọng Cao. Giữa lúc đó thì Phạm Lang về. Nghi ngờ vợ mình có tư tình với Trọng Cao, không kịp để cho vợ kịp thanh minh, Phạm Lang đã nặng lời với Thị Nhi. Lời qua, tiếng lại chẳng ai để ý ở dưới bếp ngọn lửa lúc này đã lan đến thùng rạ. Khi nghe mọi người tri hô, cả hai giật mình nhìn ra thì... hỡi ôi, cả cái bếp chỉ còn là một cột lửa khổng lồ? Để bộc bạch lòng mình với hai người đàn ông, Thị Nhi đã chọn cái chết bằng cách nhảy vào đống lửa. Quá bất ngờ, Phạm Lang như sực tỉnh nhưng lúc này có hối thì đã muộn, liền nhảy vào đống lửa chết theo. Nghĩ mình là nguyên nhân gây ra cái chết của Thị Nhi, Trọng Cao cũng kết thúc đời mình bằng cách nhảy vào đống lửa để được cùng chết theo vợ."
Cảm động trước cái chết của 3 người, Ngọc Hoàng Thượng đế mới phong cho họ là Táo quân (vua bếp)?.


.. Đến tín ngưỡng
Tìm hiểu bài vị cũng như các bài văn khấn Táo quân (nôm cũng như tự), chúng ta thấy chúng gồm có 3 ngôi:

1- Đông trù tư mệnh Táo phủ thần quân (tức Thổ công)
2 - Thổ địa long mạch tôn thần (tức Thổ địa)
3 - Ngũ Phương, ngũ thổ phúc đức chính thần (tức Thổ kỳ)
Như vậy, Táo quân không phải là một danh từ riêng chỉ ai đó, mà là danh từ chung cho cả 3 ngôi: Thổ công, Thổ địa và Thổ kỳ.

Khác với xã hội loài người: ? Một nước không thể có hai vua?, thế giới tâm linh có vẻ thoáng hơn trong việc chấp nhận mô hình ? ba vua một bếp?.
Về vị trí của mỗi ngôi, ở giữa là Vua Bà, bên trái là Thổ công, bên phải là Thổ địa. Đó là lí do giải thích vì sao trong 3 chiếc mũ đặt trên bàn thờ, không giống với hai chiếc kia, chiếc mũ ở giữa không có cánh chuồn.

Từ truyền thuyết đến tín ngưỡng, Phạm Lang là Thổ công, được giao nhiệm vụ trông coi việc bếp núc;
Trọng Cao là Thổ địa trông coi việc trong nhà;
Thị Nhi là Thổ kỳ trông coi việc chợ búa.

Hẳn không phải là vô tình, khi sự sắp xếp đó cho thấy Thổ công (Phạm Lang) và Thổ kỳ (Thị Nhi ) thường xuyên được gần gũi nhau (?). Phải chăng đây là cách lí giải cho việc Thị Nhi và Trọng Cao - trên thực tế - đã bỏ nhau và danh chính ngôn thuận - Thị Nhi đã là vợ của Phạm Lang (?).
Nhưng, nếu như chỉ dừng lại ở đấy thì chẳng lẽ trong cái quan hệ bộ ba (hai ông một bà) ấy, Trọng Cao hoá ra thừa (?!) . Đó là chưa nói đến việc phong cho ba người chức Táo quân, để họ sống tiếp với nhau ở kiếp sống thứ hai như là sự vô tình. Hơn nữa, như là sự bất nhẫn đối với Trọng Cao!

Không! Ngọc Hoàng Thượng đế đã lường trước được điều đó và đã rất sáng suốt (nếu không nói là đã rất ?người?) khi quyết định hàng năm, cứ đúng vào ngày 23 tháng Chạp là ngày Thổ công (Phạm Lang) lên chầu trời (cho nên có nơi gọi ngày này là Tết ông Công).
Như vậy, từ 23 tháng Chạp đến Giao Thừa là thời gian để Thổ địa (Trọng Cao) và Thổ Kỳ (Thị Nhi) được gần gũi nhau - một khoảng thời gian không phải là dài nhưng cũng không đến nỗi quá ngắn (nếu như có chuyện ?trục trặc của phụ nữ? về phía Thị Nhi).
Cũng thời gian này, Thổ địa (Trọng Cao) sẽ thay Thổ công (Phạm Lang) nhiếp chính. Những gì xảy ra (trong thời gian đó) sẽ nằm trong bản tấu sớ năm sau (tất nhiên?) và sẽ được Thổ địa bàn giao cho Thổ công vào lúc Giao Thừa...



Tại sao lại gọi thần bếp là Táo.
Từ Táo có gốc Tá - có nghĩa là Lửa.Từ “tá” đi đôi với từ “hỏa” như trong những từ ghép “tá hỏa”, “tá hỏa tam tinh”.
Cổ ngữ Mường Việt gọi các vị thần tổ phái nam thuộc dòng mặt trời, dòng lửa là Tá ví dụ Tá Cần, tá Cài. Theo bài hát tế Ðẻ Ðất Ðẻ Nước tức ở Thanh Hóa :…
Trứng một đẻ ra ông Dịt Dàng,
Trứng hai đẻ ra ông Lang Tá Cài,
Trứng ba nở ra ông Lang Tá Cần .
Thì vua Hùng Vương Dịt Dàng và tá Cài cùng sinh ra từ trăm cái trứng của bà Ngu Cơ, tức bà Âu Cơ:
Ngôn ngữ Ba Tư “Tarr” là thần lửa. Ai Cập ngữ Ptah, Tatom, Tatum là thần mặt trời. Tá là tổ, là tỏ, là mặt trời, là lửa. Ông Táo là ông Tá , ông Lửa, tức ông Thần Bếp Lửa.

Bếp là gì?
Bếp là nơi có lửa nấu thức ăn nước uống. Bếp có gốc bế – ruột thịt với “bễ” có nghĩa là ống thổi lửa như ống bễ thợ rèn, kéo bễ thổi lửa như thường ví hai cái lỗ mũi như hai cái ống bễ. Bếp liên hệ với “bật” là làm sáng lên như bật đèn, bật lửa, bật diêm quẹt.... Bễ, bếp, bật... liên hệ với Phạn “bhà-”, sáng, làm sáng lên. Vậy bếp liên hệ với lửa.
Tóm lại ông Táo là ông Lửa, ông Thần Bếp Lửa.

Tại sao thần táo lại cỡi cá chép về chầu trời?
Theo truyền thuyết, thần Táo cỡi cá chép về chầu Ngọc Hoàng. Trong các món đồ cúng ông Táo có món cá chép còn sống bơi trong chậu nước để ông Táo dùng làm phương tiện di chuyển về trời. Tại sao Thần Táo lại cưỡi cá chép?
Trong các loài cá chỉ cá chép có thể hóa ra rồng bay lên mây, lên trời được. Cá chép “hóa rồng”
Theo truyền thuyết thì:
Mồng bốn cá đi ăn thề,
Mồng tám cá về, cá vượt Vũ-môn.
Vũ-môn là một chỗ có nhiều ghềnh thác trên Trường Giang tức sông Dương Tử thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc ngày nay. Cứ đến ngày mồng tám tháng tư thì cá chép ở các nơi qui tụ về chỗ ghềnh thác này để thi nhẩy. Con nào nhẩy vượt qua được ba bậc của ghềnh thì hóa thành rồng.
Cá chép hóa rồng nên cá chép cũng được dùng làm biểu tượng cho vua Rồng Lạc Long Quân.
Người Mường thờ cá chép coi như là Lạc Long Quân và con nai sao là Âu Cơ.
Chúng ta cũng coi cá chép là biểu tượng cho Lạc Long Quân. Chứng tích cá chép liên hệ đến Lạc Long Quân thấy qua câu sử miệng ca dao cổ ở làng Lệ Mật, Gia Lâm ngoại ô Hà Nội:
Ðến ngày 23 tháng ba,
Dân trại ta vượt Nhị Hà thăm quê,
Kinh Quản, Kinh Cự đề huề,
Hồ Tây cá nhảy đi về trong mây

Cứ đến ngày 23 tháng 3 âm lịch, dân làng Lệ Mật đánh cá ở giếng đình để lấy “cá đóng dấu đem dâng thánh ăn gỏi. Ðó là những con cá chép có dấu son đỏ trên vẩy. Dân làng bảo đó chính là Hồ Tây cá nhẩy đi về trong mây”

Cũng chính vì cá chép dùng làm phương tiện về trời của thần bếp lửa vào tháng cuối tháng chạp mà chúng ta gọi nó là cá “chép”. “Chép” biến âm với “chạp”. Cá chép là cá tháng chạp. Chép và chạp đều có nghĩa là “hai”.
Người Việt chúng ta gọi là tháng 11 ta là tháng một và tháng 12 ta là tháng chạp,

Cá chép là cá tháng chạp. Do đó cá chép được dùng làm phương tiện về trời của ông Táo vào ngày hai mươi ba tháng chạp ta. Ngoài ra cá chép có râu mang nam tính, dương, lửa, môi mép, vẩy vi viền đỏ là con cá lửa. Cá chép còn gọi là cá gáy. Nếu hiểu gáy là tiếng hót thì gáy là biểu tượng cho đực, hùng tính. Con chim, con gà chỉ con đực mới gáy. Gáy biến âm với gay là đỏ. Ðỏ gay. Ðỏ là tỏ là mặt trời, lửa. Hán ngữ cá chép là lí ngư. Lí biến âm với li là lửa. Lí ngư là cá lửa. Như thế cá chép liên hệ tới lửa điều này giải thích tại sao ông Táo Thần Bếp lửa cỡi cá chép về trời.

Ông táo không mặc quần
Cũng theo truyền thuyết ông Táo chỉ đội mũ, đi hia không mặc quần như thấy qua câu thơ của một nhà văn:
Ðội mũ đi hia, chẳng mặc quần.
Ðồ mã cúng ông Táo không bao giờ có quần. Câu ca dao dưới đây cho thấy ông Táo ở trong bếp lửa ấm cúng nên không cần nhiều đồ mặc, không cần quần và ở trong bếp nên cũng không phải lo về vấn đề ăn uống; ông Táo không phải lo ăn, lo mặc nên chẳng phải lo gì nhiều so với ông Cả:
Ông Cả ngồi trên sập vàng,
Cả ăn, cả mặc, lại càng cả lo.
Ông Bếp ngồi trong đống tro,
ít ăn, ít mặc, ít lo, ít làm.

Tại sao thần táo lại hai ông một bà?
Bây giờ ta hãy tìm xem tại sao bộ ba vị thần này lại hai ông một bà? Câu chuyện Thần Bếp hai ông một bà này đã đi sâu vào đời sống dân dã Việt Nam. ở thôn quê Việt Nam cái bếp thường được làm bằng cách nặn ba cục đất sét gọi là ba ông đầu rau.

Bộ ba ông bà Táo là ba ông đầu rau?
Xin thưa 'rau' là biến âm với 'nhau' như ta thấy qua từ lá nhau hay lá rau (placenta) của bà đẻ. Ba cái đầu rau là ba cái đầu nhau. Với âm “ h” câm, ta có nhau là nau, là nấu. Ðầu rau là đầu nấu. Ba cái đầu rau là ba cái đầu để nấu.
Trong 3 ông Đầu rau ông ở giữa có cái lỗ ấn lõm vào chỗ ngang người. Cái lỗ đó thường cho là cái lỗ rốn. Cục có rốn để ở giữa là bà Táo. Hai cục hai bên không có rốn là hai ông táo .

Tại sao chỉ có bà Táo mới có rốn còn hai ông Táo đàn ông lại không có rốn?
Bộ ba thần bếp lửa ứng với quẻ “ Li “ trong Dịch kinh. Quẻ Li gồm hai hào dương hình hai cái que, hai cái nọc kẹp ở giữa một hào âm tức cái que đứt đoạn.
Nếu viết theo Việt Dịch Nòng Nọc thì hai hào dương là hai cái que và hào âm ở giữa là cái que đứt đoạn là cái khe, cái kẽ, còn viết theo Việt Dịch Nòng Nọc là vòng tròn, là cái lỗ biểu tượng cho phái nữ tức bà Táo.
Cái rốn ở cái đầu rau Táo bà chính là cái hào âm vòng tròn Nòng. Ðiều này giải thích tại sao bà Táo đầu rau có cái lỗ rốn. Ðây là cái rốn mang âm tính và dĩ nhiên hai ông Táo đầu rau không có cái rốn loại này. Như thế chuyện thần bếp hai ông một bà nguồn từ quẻ Li là lửa trong Kinh Dịch. Thần Li, Thần Lửa là Thần Bếp.

Sưu tầm biên soạn nhân ngày ông công ông táo chia sẻ cùng bạn đọc.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét