Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Sáu, 2 tháng 9, 2016

Chuyện ở bãi trống










Cuối cùng thì mẹ tôi cũng chịu bán 3 gian nhà ngói ở phố huyện để về Hà Nội sống cùng con cái.


Lúc xe sắp chuyển bánh, thái độ của bà thật lạ. Căng thẳng, môi mím chặt như muốn khóc. Xe chạy, đôi tay bà quờ quạng trên mặt kính, thảng thốt: “ Mẹ quên một thứ”. Tôi gắt gỏng: "Nhà bán rồi, đồ đạc cũng cho hết rồi, còn quên gì nữa”. -Cứ cho mẹ xuống- Mẹ tôi van vỉ.  Xe vừa dừng bánh, bà lao ngược trở lại lẫn trong đám bụi rồi trở ra với một bọc vải. Dọc đường, bà im lặng không nói. Mắt dấn nước. Tay vẫn ôm khư khư chiếc bọc. - Gì vậy mẹ? – Tôi ngả đầu vào vai bà, gạn hỏi.  - Con còn nhớ thằng Chung không? Cái thằng trẻ nhất đám tân binh đóng ở phố huyện năm bảy ba ấy. Đây là cành san hô nó tặng con trước khi vào Nam chiến đấu. Tôi bật đứng dậy, đầu chạm vào trần xe đau điếng. Một luồng hồi ức chạy dọc thân thể, òa vỡ, tê dại... Gần 30 năm trước, phố huyện bây giờ chỉ có vài chục nóc nhà tranh. Nghe nói trong kháng chiến chống Pháp khu vực này là bãi trống vỡ hoang. Gia đình tôi cũng nằm trong số đó. Chỉ có gia đình ông Ba thợ rèn chuyên nghề đánh dao, gò nồi thuộc diện “vãng lai” phiêu dạt ở tận đẩu đâu đến. Ông Ba Rèn thấp, đậm, đôi mắt thao láo, trắng dã. “Người như vậy thâm lắm”. – Bà tôi vẫn nói thế. Còn bà Ba tròn như hạt mít, gương mặt đen sạm, vành môi trề quanh năm nứt như ruộng hạn. Thế mà cô con gái lại xinh, da trắng bóc, đôi mắt đen láy, sắc lẹm như vẽ, thân hình dong dỏng, đi đứng yểu điệu. Cô không giống ai trong đám cư dân bãi trống, cứ tươi mởn, phơi phới giữa đám dân lam lũ, sậm sụi vì nghèo. Dân bãi trống đồn cô là con hoang. Mỗi lần lời đồn đến tai bà Ba, bà ta lại xắn quần đi dọc bãi, chửi chõ vào từng nhà. Còn ông Ba vác rượu ngồi cạnh cái bễ rèn nốc ừng ực. Mặt ông tím lịm, đôi mắt đã trắng lại càng trắng. Cả bãi trống hôm ấy chìm trong bầu không khí u ám, căng thẳng. Những lúc như thế, đám trẻ con không dám đi qua cửa nhà ông, sợ ông lên cơn quăng đứa nào vào cái bễ hừng hực lửa. Khác với bố mẹ, Thủy- tên cô gái ông Ba rèn- chỉ im lặng, mủm mỉm cười. "Người như vậy là đĩ lắm. Rồi đến lúc lại giống mẹ nó thôi”.- Bà tôi cứ cay ca mỗi khi Thủy qua ngõ nhà tôi. Bà cấm tôi không được chuyện trò với Thủy- “Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng con ạ”. Cũng giống bà tôi, dân bãi trống bị ám ảnh bởi những câu chửi tục tĩu, cay độc của bà Ba nên cấm con cái không được giao du với Thủy. Thủy cứ lặng lẽ, duyên dáng và cô độc trên bãi trống cho tới khi một đơn vị bộ đội về đóng quân cách xóm vài cây số. Quán nước chè của bà tôi đông khách hẳn lên, tôi thường phụ bà bán hàng. Trong đám lính hay lui tới quán, tôi có thiện cảm với Chung. Anh điềm đạm, ít nói, đôi mắt phảng phất buồn, khác xa những người bạn cùng đơn vị nghịch như quỷ sứ. Mà không chỉ có tôi, cả gia đình tôi đều quý Chung . Mỗi lần đến quán, anh thường tìm cho mình một công việc, khi thì cạp lại cho bà tôi chiếc rổ, lúc vặn lại chiếc ốc trên chiếc xe đạp cà tàng của mẹ. Riêng với tôi, anh hỏi cặn kẽ những bài học ở trường, những người mà tôi kết bạn rồi dạy tôi cách đan lát. Anh xòe mười đầu ngón tay trước mặt tôi thì thầm:” Anh có 10 cái hoa tay đấy”. Một lần, anh dè dặt hỏi: - Em thấy chị Thủy thế nào? - Ai cơ?- Tôi thảng thốt nhìn vẻ đăm chiêu, suy tư của Chung. - Chị Thủy con ông Ba Rèn... Tôi cúi mặt: "Người ra đồn chị ấy là con hoang. Còn bà thì bảo người đẹp như chị ấy đĩ lắm”. - Em đừng tin những lời đồn đại như thế. Mà con hoang thì đã sao. Anh cũng là con hoang đấy. – Chung xiết mạnh vai tôi làm tôi đau điếng. - "Anh xin lỗi. Bố mẹ anh nghèo lắm, đến nỗi không có gì để cưới nhau. Mẹ anh theo bố anh ra xóm chài mặc những lời dè bỉu, đơm đặt. Khi mẹ mang thai anh thì bố ngã bệnh rồi mất. Anh sinh ra đã là con hoang trong mắt không ít người. Để nuôi anh, mẹ anh hàng ngày phải dầm mình dưới biển, bất kể trời nóng hay lạnh để kiếm san hô. Em có biết san hô không? Đó là loại hoa đá nằm sâu dưới nước biển. Hái được san hô vất vả lắm. Những người làm nghề hái san hô đều là đàn ông, chỉ mỗi mẹ anh là đàn bà trong đám thợ lặn ấy. Nhiều hôm mẹ trở về với hai bàn tay trầy xước, túa máu vì đá cứa. Vậy mà những gì mẹ anh kiếm được chỉ đủ cho hai mẹ con rau cháo cầm hơi. Bây giờ thì mẹ anh đã già, không còn đi biển được nữa. Bà có một quán nước chè như của bà em vậy. Mỗi lúc được nghỉ, anh lại muốn ra đây, nhìn bà em, nhìn cảnh xum họp của gia đình cho vơi nỗi nhớ". - Có phải vậy mà anh thương chị Thủy không?- Tôi dè dặt cắt ngang. - Không đâu. Chị Thủy là người tốt. Anh chưa nói chuyện với chị ấy bao giờ, cũng chưa có dịp làm quen chị ấy nhưng người như Thủy không thể xấu được.Vài ngày sau , chị Thủy vác đống chiếu qua ngõ nhà tôi, đi về phía suối ở cuối bãi trống. Tôi lẳng lặng bám theo. Đôi chân trắng như ngó sen của chị khỏa trong nước suối buổi sớm lấp lóa. Tôi ngần ngại nhìn đôi cẳng chân đen đủi của mình rồi ào xuống cạnh chị: "Có một anh bộ đội rất thương chị". Chị Thủy tủm tỉm : “ Anh Chung phải không?”. Tôi ngẩn mặt vì ngượng, bước nhanh vào bờ, lao hùng hục về nhà. Chung đến. Mặc cho anh thanh minh. Mặt tôi vác lên sưng sỉa: “ Dối trá, thế mà bảo chưa quen, chưa nói chuyện. Biết đâu những chuyện anh kể về mẹ, về nghề hái san hô, về ước mơ có một gia đình đầm ấm như gia đình em cũng chỉ là chuyện bịa”.  Chung lặng đi. Rồi anh lầm lũi đi ra ngõ. “ Mày với thằng Chung giận nhau hả?”- Mẹ tôi tháo chiếc nón trên đầu quạt phành phạch. “ Hôm qua mẹ gặp bà Ba, bà ấy kể thằng Chung đến xin được đi lại tìm hiểu con Thủy. Rõ là mèo mù với cá rán. Tao chẳng ghét gì con Thủy, phải cái gia đình nó khác gia đình mình. Nghe đâu ngày trước vì thù hận, bố nó vất thuốc phiện vào nhà hàng xóm rồi đi báo khiến người ra phải vào tù”. Lại nghe đồn. Không biết bao giờ dân bãi đất trống này mới thôi chuyện đồn đại, vu oan cho người khác đây. Tôi đứng phắt dậy, chạy ra ngõ, nước mắt rơi tong tả trên ngực áo. Đến bờ suối, tôi sững lại khi thấy mái tóc óng mượt của Thủy phủ trên bờ vai người con trai ngồi bên cạnh. Chung đấy thôi. Anh ta giận tôi để rồi đến đây. Cơn tức trào lên làm tôi nghẹt thở. Tôi cúi xuống vốc nắm cát ném về phía hai người ròi bỏ chạy, mặc cho Chung gọi đuổi theo. Vài tháng liền tôi không gặp Chung. Cả đám lính trẻ đơn vị anh cũng không lui tới quán. Một buổi chạng vạng, Chung đến mang theo một cây hoa đá gắn những chiếc vỏ ốc xinh xắn như những chiếc cúc áo. Anh nói anh sắp vào Nam chiến đấu. Cây hoa đá này do chính anh hái từ dưới biển sâu để tặng tôi trong dịp nghỉ phép. Mẹ tôi thịt con gà sống thiến tiễn Chung. Anh ăn chậm, thi thoảng mới nói được vài lời như muốn khóc: “ Con luôn muốn có một gia đình như vậy...”. Tôi nhìn anh, hối lỗi, bùi ngùi, nước mặt chạy vòng quanh, rơi xuống bát cơm nguội ngơ ngắt. Anh đi được chừng một tháng đã có thư về cho tôi. Anh kể anh đang ở Trường Sơn, muỗi nhiều, mưa nhiều nhưng vẫn không bằng bom đạn giặc Mỹ ném xuống. Sau mỗi đợt bom, các anh lại vượt qua những hố bom, những tảng rừng cháy tiến về phía trước. Bức thư cuối cùng tôi nhận được của anh trước ngày thành phố Huế giải phóng chừng vài tháng. Anh dặn, nếu gặp chị Thủy nói với chị anh rất thương chị nhưng đừng chờ anh. Anh đã nhiều lần giáp mặt với cái chết . Cuộc chiến còn dài. Để chị chờ, anh không nỡ... Tôi đang băn khoăn không biết nói với Thủy ra sao thì bà tôi ở chợ về, đặt phịch gánh chuối xuống đất, oa oa:” Tao đã bảo mà, cái ngữ ấy rồi lại vác bụng giống con mẹ nó”. - Ai ? - Con Thủy chứ ai? Tôi chạy về phía nhà Thủy. Lách qua đám đông đang chen chúc trước cửa. Ngọn lửa hừng hực từ bễ rèn hắt hơi nóng bỏng lên thân thể trắng lấp lóa của Thủy sau lớp quần áo bị xé tớt túa. Nhìn thấy tôi, Thủy hức hức mấy tiếng rồi lịm đi trong đám dây thừng quấn quanh người... Nhìn thấy kiểu nốc rượu và vẻ mặt tím lịm của ông Ba hồn vía tôi đã bạt mất. Tôi quay về nhà, nằm úp sấp trên chõng, người hâm hấp như lên cơn sốt, cho đến lúc trăng lên. Trăng đầu tháng xanh mướt rót những đốm sáng hư ảo, run rẩy trên mặt ngõ như người thiếu nữ bị đòn oan. Tôi giật mình bởi tiếng gọi rất nhỏ. Chị Thủy. Đúng là Thủy, chị lom khom với một bọc vải trước ngực : “ Chị phải đi thôi, ở lại không sống được với bố chị, với dân bãi trống. Có thể em không tin nhưng đúng là của anh ấy đấy. Chị sẽ về quê anh ấy. Mẹ anh ấy là người nhân hậu, chị linh cảm mẹ con chị có được chỗ nương tựa. Em đừng nói cho ai biết chị đi đâu.” Tôi lần ra sau nhà, rút trong mái tranh ống tre tiết kiệm, dốc cạn, nhét vào tay chị những đồng bạc lẻ ẩm mốc : "Chị đi đi”. Sau khi chị Thủy đi, đêm đêm dân bãi trống rợn người vì tiếng hờ con thảm thiết của bà Ba. Rồi bà Ba bệnh qua đời. Ông Ba bỏ đi biệt tích. Đất nước giải phóng, cơ chế thị trường mở ra, dân bãi trống tất bật với cuộc sống mới. Phố huyện hình thành, câu chuyện về những cái bụng chửa hoang của nhà ông Ba hầu như chẳng mấy ai còn nhắc đến. Chính tôi cũng quên bẵng câu chuyện thương tâm kia. Thi thoảng có dịp về bãi thăm mộ bà, tôi thuê chiếc xe thật đắt tiền, hỉ hả với sự thành đạt của mình, chẳng gì tôi cũng là số ít dân phố huyện học thành đạt, trụ lại ở thủ đô. “Mấy năm trước phố huyện tổ chức đi Yên Tử, mẹ có tìm nhà thằng Chung nhưng người trong ngôi nhà đó nói chủ cũ của ngôi nhà đã chuyển về Cẩm Phả. Họ có cho mẹ địa chỉ nhưng mẹ không kịp đến. Không biết thằng Chung còn sống hay đã hy sinh? Con Thủy ngày ấy có tìm được chỗ nương tựa? Giá như ngày đó, mọi người đừng nghiệt ngã, con Thủy đã không phải bỏ nhà bỏ cửa mà đi với đứa con trong bụng". Mặt tôi nóng rát. Tôi ngượng với sự hỉ hả của mình trước đó. Cảm thấy những gì mình đang tự hào, đang mãn nguyện thật vô nghĩa - Mẹ cho con cái địa chỉ. Con sẽ đi tìm anh Chung. -Ừ. Mẹ cũng mong gặp lại nó. Chỉ sợ hòn tên, mũi đạn không có mắt. -Chưa gặp thì vẫn còn hy vọng. Không chị Thủy giờ ra sao. Nếu ngày đó mọi việc suôn sẻ, con chị ấy giờ cũng đến tuổi vào đại học. Sao ngày xưa mọi người nghiệt ngã với nhau thế nhỉ. -Hoàn cảnh cả thôi. Mỗi thời mỗi khác. Cũng những người ấy giờ thay đổi cả. Ai ác nghiệp nhiều thì ân hận nhiều, ác nghiệp ít ân hận ít. Nghĩ thấy thương chúng nó... Chiếc xe lao nhanh về phía trước. Tôi nhìn lại phía sau, nơi có một phố huyện đang đổi mới, cồn cào một cảm giác nao nao. Dường như tôi cũng đã biến thành một người mới sau những hồi ức của mẹ.
                                                     CHU THU HẰNG
      ( Song Thu sưu tầm. Nguồn: NguoiChiLinh.com. Mục người Chí Linh viết)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét