Á Nam Trần
Tuấn Khải
(1895 –
1983)
Trần
Tuấn Khải người làng Quan Xá, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Định. Xuất thân là nhà nho
nghèo, có truyền thống yêu nước. Cha ông đậu cử nhân khoa thi Hương tại Nam Định
năm Canh Tý (1900), nhờ vậy năm lên 6 tuổi, ông bắt đầu học chữ Hán với cha.
Năm 12 tuổi, ông đã biết làm đủ các thể thi bằng chữ Hán.
Năm
1921, ông xuất bản tập thơ thứ nhất "Duyên nợ phù sinh I", được giới
văn học đương thời lưu tâm. Năm sau, ông được mời vào Ban biên tập nhật báo
Khai Hoá tại Hà Nội và nhận lời viết giúp cho nhiều báo khác. Đến khi ông cho
xuất bàn "Bút quan hoài I"(1927), gồm nhiều bài bi tráng và được nhiều người
hoan nghinh; Pháp ra lệnh cấm lưu hành và tàng trữ tập thơ đó. Năm 1954 ông vào
Nam, làm việc tại Thư viện quốc gia, Viện khảo cổ, chuyên viên Hán học tại Nha
văn hoá và các báo Đuốc Nhà Nam, Văn hoá nguyệt san, Tin văn...
Năm
1966, ông cùng một số trí thức tiến bộ kí tên yêu cầu chính quyền Sài Gòn trực
tiếp hiệp thương với Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam nhằm vãn hồi hoà
bình, nên bị buộc nghỉ việc. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, ông giữ chức cố vấn
Hội Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh từ 1975 cho đến khi mất(1983). Hưởng thọ 88 tuổi.
Với
Chí Linh ông có hai bài thơ Kỷ niệm Đức
Hưng Đạo đại vương và Hai chữ nước nhà viết về Nguyễn Phi Khanh và
Nguyễn Trãi. Bài Hai chữ nước nhà trước
đây được truyền tụng rất rộng rãi trong vùng và thường được gọi là bài Phi Khanh dặn Nguyễn Trãi.
1 - Kỷ niệm Đức Hưng Đạo đại vương
Hơn sáu trăm năm trải mấy triều?
Khí thiêng phảng phất núi non cao.
Sông Đằng tưởng tượng quân Nguyên chạy,
Đất Kiếp mơ màng tiếng kiếm gieo.
Tấc dạ trung trinh theo sóng nổi.
Mảnh gương chính khí ngất trời treo.
Năm năm tháng tám trung tuần đó!
Khắp bốn phương dân hội dập dìu.
Khí thiêng phảng phất núi non cao.
Sông Đằng tưởng tượng quân Nguyên chạy,
Đất Kiếp mơ màng tiếng kiếm gieo.
Tấc dạ trung trinh theo sóng nổi.
Mảnh gương chính khí ngất trời treo.
Năm năm tháng tám trung tuần đó!
Khắp bốn phương dân hội dập dìu.
2- Hai chữ nước nhà
Nghĩ lời ông Phi Khanh dặn ông Nguyễn Trãi
khi ông bị quân Minh bắt giải sang Tàu
Chốn Ải Bắc mây sầu ảm đạm
Cõi trời Nam gió thảm đìu hiu
Bốn bề hổ thét chim kêu
Ðoái nom phong cảnh như khêu bất bình
Hạt máu nóng thấm quanh hồn nước
Chút thân tàn lần bước dậm khơi
Trông con tầm tã châu rơi
Con ơi con nhớ lấy lời cha khuyên:
Giống Hồng Lạc hoàng thiên đã định
Mấy ngàn năm suy thịnh đổi thay
Trời Nam riêng một cõi này
Anh hùng, hiệp nữ xưa nay kém gì!
Than vận nước gặp khi biến đổi
Ðể quân Minh thừa hội xâm lăng
Bốn phương khói lửa bừng bừng
Xiết bao thảm họa xương rừng máu sông!
Nơi đô thị thành tung quách vỡ
Chốn dân gian bỏ vợ lìa con
Làm cho xiêu tán hao mòn
Lạ gì khác giống dễ còn thương đâu!
Thảm vong quốc kể sao cho xiết
Trông cơ đồ nhường xé tâm can
Ngậm ngùi đất khóc giời than
Thương tâm nòi giống lầm than nỗi này!
Khói Nùng Lĩnh như xây khối uất
Sóng Long Giang nhường vật cơn sầu
Con ơi! càng nói càng đau…
Lấy ai tế độ đàn sau đó mà?
Cha xót phận tuổi già sức yếu
Lỡ sa cơ đành chịu bó tay
Thân lươn bao quản vũng lầy
Giang sơn gánh vác sau này cậy con
Con nên nhớ tổ tông khi trước
Ðã từng phen vì nước gian lao
Bắc Nam bờ cõi phân mao (1)
Ngọn cờ độc lập máu đào còn dây
Kìa Trưng nữ ra tay buồm lái
Phận liễu bồ xoay với cuồng phong
Giết giặc nước, trả thù chồng
Nghìn thu tiếng nữ anh hùng còn ghi
Kìa Hưng Đạo gặp khi quốc biến
Vì giống nòi quyết chiến bao phen
Sông Bạch Đằng phá quân Nguyên
Gươm reo chính khí nước rền dư uy
Giở lịch sử gương kia còn tỏ
Mở dư đồ đất nọ chưa tan
Giang san này vẫn giang san
Mà nay sẻ nghé tan đàn vì ai?
Con nay cũng một người trong nước
Phải nhắc câu “Gia, Quốc” đôi đường
Làm trai hồ thỉ bốn phương
Sao cho khỏi thẹn với gương Lạc Hồng
Thời thế có anh hùng là thế
Chữ vinh hoa sá kể làm chi!
Mấy trang hào kiệt xưa kia
Hy sinh thân thế cũng vì nước non
Con đương độ đầu xanh tuổi trẻ
Bước cạnh tranh há để nhường ai?
Phải nên thương lấy giống nòi
Đừng tham phú quí mà nguôi tấc lòng
Kiếp luồn cúi, đỉnh chung cũng nhục
Thân tự do chiên chúc (2) mà vinh
Con ơi nhớ đức sinh thành
Sao cho khỏi để ô danh với đời
Chớ lần lữa theo loài nô lệ
Bán tổ tiên kiếm kế sinh nhai
Đem thân đầy đọa tôi đòi
Nhục nhằn bêu riếu muôn đời hay chi?
Sống như thế, sống đê, sống mạt
Sống làm chi thêm chật non sông!
Thà rằng chết quách cho xong
Cái thân cẩu trệ ai mong có mình!
Huống con cũng học hành khôn biết
Làm giống người phải xét nông sâu
Tuồng chi gục mặt cúi đầu
Cam tâm làm kiếp ngựa trâu cho đành!
Nỗi tâm sự đinh ninh dường ấy
Cha khuyên con có bấy nhiêu lời
Con ơi, con phải là người
Thì con theo lấy những lời cha khuyên
Cha nay đã muôn nghìn bi thảm
Nói bao nhiêu tâm khảm càng đau!
Chân mây mặt cỏ rầu rầu
Càng trông cố quốc mạch sầu càng thương!
Lời cha dặn khắc xương để dạ
Mấy gian lao con chớ sai nguyền
Tuốt gươm thề với xương thiên
Phải đem tâm huyết mà đền cao sâu
Gan tráng sĩ vững sau như trước
Chí nam nhi lấy nước làm nhà
Tấm thân sẻ với san hà
Tượng đồng bia đá họa là cam công
Nữa mai mốt giết xong thù nghịch
Mũi long tuyền lau sạch máu tanh
Làm cho đất động trời kinh
Bấy giờ quốc hiển gia vinh có ngày!
Nghĩa vụ đó, con hay chăng tá?
Tính toán sao vẹn cả đôi đường
Cha dù đất khách gửi xương
Trông về cố quốc khỏi thương hồn già
Con ơi! hai chữ NƯỚC NHÀ...
(1) Sách sử chép, những nơi giáp giới nước ta với nước Tàu thì ngọn cỏ chia lả
ra hai bên. Nghĩa là nửa đường bên kia thì ngọn cỏ lả về Tàu, mà bên này thì ngọn
cỏ lả về bên ta, cho nên gọi là phân mao; phân mao tức là chia ngọn cỏ vậy.
(2) Chiên chúc: rau cháo.
(2) Chiên chúc: rau cháo.
21/11/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét