Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Năm, 1 tháng 11, 2012

Ai đúng hơn ai ?

(Mạn đàm về Giai thoại văn chương: Chê thơ Chu Mạnh Trinh
đăng trên Blog Tri Ân Cuộc Đời, ngày 31/10/2012)



 Đền Đa Hòa (Khoái Châu, Hưng Yên), thờ Chử Đồng Tử và Tiên Dung,
 một công trình kiến trúc của Chu Mạnh Trinh


Trước hết phải nói Chu Mạnh Trinh là người viết trước. Tôi tìm đọc bài thơ ở các nguồn tài liệu khác nhau thì thấy cũng có một số điểm khác nhau. Trước hết, về câu chữ có hai chỗ khác biệt là: chữ “mầu xuân” có bản ghi là “mùa xuân”, chữ “dưới hoa” có bản ghi là “dãy hoa”. Về tên bài thơ cũng có những khác biệt. Trong giai thoại này thì viết là Viếng Đạm Tiên, gặp Kim Trọng. Nhưng trong tập thơ Vịnh Kiều tham dự cuộc thi thơ do Tổng đốc Hưng Yên Lê Hoan tổ chức năm 1905, và chánh chủ khảo là cTam nguyên Yên Đổ- nhà thơ Nguyễn Khuyến, thì đầu đề lại khác. Thực ra thì cuộc thi ấy có đề ra quy định rất cụ thể: mỗi người tham dự  phải làm một bài tựa tác phẩm của Thanh Tâm tài nhân (tức Kim Vân Kiều truyện) bằng chữ Hán, theo thể văn tứ lục; một bài tổng vịnh (tức đề từ) và 20 bài thơ đường luật (có thể bằng chữ Hán hoặc chữ Nôm) dựa theo 20 hồi trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm tài nhân (dân gian thường gọi đó là bản Kiều tự để phân biệt với bản Truyện Kiều của Nguyễn Du là bản Kiều Nôm). Cụ thể tác phẩm dự thi của Chu Mạnh Trinh gồm có các bài với những đề mục như sau:

1.     Hồi 1: Kiều chơi tết Thanh Minh

2.     Hồi 2: Hội ngộ vườn Thúy

3.     Hồi 3: Kiều thề nguyền với Kim Trọng

4.     Hồi 4: Kiều cậy em thay lời

5.     Hồi 5: Kiều bán mình chuộc cha

6.     Hồi 6: Vương ông được tha

7.     Hồi 7: Kiều về trú phường

8.     Hồi 8: Tú Bà Khuyên Kiều

9.     Hồi 9: Kiều mắc lận Sở Khanh

10.   Hồi 10: Tú Bà dậy nghề chơi

11.   Hồi 11: Kiều gặp Thúc Sinh

12.   Hồi 12: Kiều lấy Thúc Sinh

13.   Hồi 13: Thúc Sinh về thăm Hoạn Thư

14.   Hồi 14: Kiều mắc tay Hoạn Thư

15.   Hồi 15: Kiều ở Quan Âm các

16.   Hồi 16: Thúc sinh lén thăm Kiều

17.   Hồi 17: Kiều gặp Từ Hải

18.   Hồi 18: Kiều đến ân báo oán

19.   Hồi 19: Từ Hải ra hàng

20.   Hồi 19b: Kiều trầm mình

21.   Hồi 20: Tái hợp

22.   Tng vịnh truyện Kiều

23.   Thanh Tâm tài nhân tập tự (Bài tựa viết bằng chHán)

24.   Thúy Kiều lưu lạc (hát nói)

25.   Thúy Kiều oan trái (hát nói)

Như vậy có thể xem tác phẩm dự thi của Chu Mạnh Trinh là một bản chuyển thể Truyện Kiều từ văn xuôi chữ Hán sang thể thơ đường luật chữ Nôm, một bản dịch Truyện Kiều thứ hai trong văn học Việt Nam. Đặc biệt là tác phẩm của ông lại được đánh giá rất cao và trao giải nhất về thơ Nôm trong cuộc thi ấy. (về chữ Hán, người được giải nhất là Chu Thấp Hy). Điều quan trọng là sau cuộc thi, thơ Chu Mạnh Trinh vẫn ở lại cùng bạn đọc và được lưu truyền rộng rãi. Điều đó đủ minh chứng cho Chu Mạnh Trinh không lạc đề.

Tôi có nhờ Goole tra cứu giúp về Nguyễn Đình Văn nhưng không tìm được. Có thể ông cũng là một nhà thơ nhưng tầm cỡ chưa đủ lớn để chúng ta có thể tìm thấy dễ dàng. Cũng có thể ông chỉ là một “nhân vật giai thoại” sinh ra để phát biểu cho môt quan điểm đánh giá về thơ Chu Mạnh Trinh mà thôi. Cho nên đành chỉ có thể căn cứ vào ý kiến và bài thơ cụ thể ghi trong giai thoại mà thẩm định vậy. Rõ ràng là ý kiến “sổ toẹt” của ông là thiên vị và đầy thành kiến. Rất có thể là vì ghét người mà chê văn chăng? Bởi vì dù sao thì Chu Mạnh Trinh cũng là một vị quan to của triều đình nhà Nguyễn dưới thời Pháp thuộc. Mà đã làm quan cho giặc thì trước con mắt của mọi người thời đó và kể cả ngày nay nữa vẫn còn ghét bỏ. Nhiều khi đến mức oan uổng. Có lẽ lịch sử sẽ còn phải làm nhiều cuộc “chiêu tuyết” cho khá nhiều danh nhân mà trong những hoàn cảnh nhất định đã có những cách “ứng xử hai mặt” không dễ gì hiểu rõ và cảm thông. Chu mạnh Trinh và kể cả Lê Hoan nữa đều là những người như thế.

Còn về bài thơ thì Nguyễn Đình Văn đã hoàn toàn lạc đề. Đúng ra bài này phải đề là Tâm trạng Thúy Kiều trong hội đạp thanh. Mở bài ra đã là “Tình nọ duyên kia vướng vít hoài”. Trong suốt bài thì hết “thương” lại “nhớ”; hết “khóc” lại “cười”. Cho đến tận cuối bài kết lại ta vẫn thấy “Thấu lòng ai chửa hỡi ai ơi”. Tất cả đều “vướng vít” cái tâm trạng rối bời của Thúy Kiều. Còn phần thuật lại câu chuyện ư ? Nếu có thì cũng chìm ở phn dưới, ta phải suy ra mới thấy được. Thế là người làm “lạc đề” lại chê người làm “sát đề” vậy! Nhưng thôi, ý kiến riêng của ông Nguyễn Đình Văn thế nào thì tùy ông. Bởi đó là quyền của ông. Nhưng “sổ toẹt” thì quả là không nên. Viết đến đây tôi bỗng nhớ tới một lời khuyên chí lý của Lê Quý Đôn trong phê bình văn chương: “Văn chương là của chung thiên hạ, ý kiến mỗi người mi khác, phân tích thì được chứ không nên chê mắng”. Tôi xin mượn câu nói ấy để thay cho cái kết của bài này.
1/11/2012
ĐĐình Tuân 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét