Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012

MỘT CHUYỆN TÌNH


                               
Đầu những năm bẩy mươi của thế kỷ trước, trong phong trào sinh viên Hà Nội có một sáng kiến phát động nữ sinh viên  viết thư động viên bộ đội ngoài mặt trận. Theo phong trào, tất cả nữ sinh đều nhiệt tình hưởng ứng. Ai nấy đều hăm hở viết. Nhưng khốn nỗi viết cho một đối tượng không cụ thể thành thử nhiều “cô nàng” đành cắn bút chứ không biết viết gì. Thị cũng vậy. Thị cứ thừ mặt ra cắn bút phân vân mãi. Viết nghiêm túc khô khan thì không thể gọi là thư mà viết thân tình tếu táo thì lại e là “vô duyên”. Thế nên loay hoay mãi mà Thị cũng chẳng viết được gì. Thị nhìn sang các giường bên thì thấy người nào cũng đang căng thẳng cả. Lúc ấy có một bạn ở giường bên quay sang hỏi nhỏ thị “ Mày viết chưa ? Viết thế nào ?”. Thị lắc đầu “ Tao chưa viết được gì cả”. Cả phòng bỗng nhốn nháo:
-Tao cũng thế !
-Tao cũng thế !
-Cứ tưởng viết thư dễ,  sao hôm nay lại khó viết thế nhỉ ?
-Dễ là dễ khi viết cho người quen, còn hôm nay mình viết cho ai mình có biết đâu ?
-Đề nghị cấp trên gợi ý thôi, cứ thế này không viết được đâu!
Họ đi xin ý kiến  “cấp trên” thật và được “cấp trên” gợi ý như sau: “Cứ xem như viết cho một người anh thân thiết của mình đang ở ngoài mặt trận ấy”.
Thị là chị cả trong nhà. Thị không có anh trai nào cả. Nhưng “gợi ý” trên cũng làm Thị “bừng sáng”. Thị nghĩ đến một anh phụ trách  của Thị thời Thị còn đang quàng khăn đỏ. Bởi anh đã hớp hồn Thị bằng tài kể chuyện của mình. Ngày ấy Thị mê anh kể chuyện lắm. Cứ sau mỗi lần sinh hoạt đội, bọn Thị lại xúm lại xung quanh anh đòi anh kể chuyện. Và lần nào anh cũng kể. Anh kể như đọc thuộc lòng cả những đoạn văn xuôi vừa bay bổng, vừa sâu sắc trong các vở bi kịch của Sêc pia. Cho tới giờ Thị vẫn còn nhớ như in cả dáng hình và giọng điệu của anh khi anh kể chuyện Ô ten lô cho bọn Thị nghe. Ngày anh đi bộ đội, bọn Thị đã ngơ ngẩn nhớ anh đến hàng tháng. Một năm sau lại có tin anh báo tử. Cả làng Thị đến dự lễ truy điệu anh. Trong buổi lễ truy điệu ấy Thị đã bật khóc òa lên như một đứa con nít…
Bây giờ Thị cứ coi như anh còn sống và Thị viết thư gửi cho anh. Và Thị viết trơn tru một mạch không vấp váp đoạn nào. Khoảng một tháng sau thì Thị nhận được thư phúc đáp. Đó là một anh bộ đội có tên là Trần Tâm. Như thư anh kể, anh cũng là một sinh viên tình nguyện “gác bút nghiên” lên đường ra trận. Anh đề nghị được kết bạn với Thị và sẽ tâm sự trao đổi với nhau qua những cánh thư. Từ đó cứ đều đặn hàng tuần Thị lại nhận được lá thư của anh. Anh viết thư hay lắm. Bức thư nào cũng tự nhiên bay bướm và dào dạt chất thơ. Thị đọc thư anh rất kỹ và nhiều bức Thị đọc đến thuộc lòng. Qua những cánh thư ấy Thị đã dõi theo bước đường anh đi…Rồi đến một bức thư anh nói trên đường hành quân vào Nam anh đã đi qua cạnh trường Thị. Giữa đêm khuya, anh chỉ thấy những tòa nhà im lặng sừng sững dưới ánh trăng. Anh rất muốn ghé thăm mà không thể. Ở bức thư này sau tên Thị  anh đã thêm cái mở ngoặc và chua thêm một từ tiếng Nga “Maiagena”. Sau này Thị đi hỏi và mới biết cái từ tiếng Nga ấy có nghĩa là “vợ của anh”.Cũng từ đó, Thị vắng thư anh. Thị cũng đoán biết là anh đã vào sâu trong tuyến lửa. Thị bỗng bâng khuâng buồn, bâng khuâng nhớ đến một người dù chưa hề gặp mặt. Những lúc ấy Thị thường giải khuây bằng cách mở lại những bức thư cũ của anh ra đọc. Nhưng càng đọc Thị lại càng mong nhớ anh hơn.
Một năm sau Thị mới nhận được lá thư của anh. Thị mừng lắm, vội mở ra. Lần này là cả một bài thơ dài kín ba mặt giấy. Bài thơ có tựa đề là “Lá thư gửi em”:
Anh lại viết cho em lá thư dài tâm sự
Trời phương Nam đêm nay khó ngủ
Cũng mơ màng theo nét bút anh biên
Ở quê hương chắc em đã lên đèn
Sau vất vả của một ngày lao động…
Lời lẽ của bài thơ tràn đầy yêu thương và mơ mộng. Và anh kết thúc bài thơ bằng một đoạn thơ chảy bỏng khát vọng sum vầy sau chiến thắng:
Và mai đây sau niềm vui chiến thắng
Anh sẽ về say đắm bên em
Dưới trời thu xanh ngắt màu xanh
Anh cùng em vui mùa lúa trổ
Nhà mới dựng lên mái hồng ngói đỏ
Đêm sum vầy bát ngát ánh trăng soi...
Bài thơ đã làm Thị vui sướng vô cùng  và Thị càng mong ngày anh trở về. Nhưng càng mong càng mất. Từ đó Thị bặt hẳn tin anh và niềm hy vọng được gặp mặt anh, dù chỉ một lần, cũng mòn mỏi dần theo năm tháng... Mãi ngoài ba mươi tuổi Thị mới đi lấy chồng. Theo lời khuyên của cha mẹ, Thị đem tất cả những bức thư của anh đốt đi. Ngọn lửa đã thiêu rụi tất cả những dấu tích về anh, một con người tuy Thị chưa hề gặp mặt, nhưng có một thời Thị thấy gắn bó và thân thiết đến thế ?
16/12/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét