Bài 55
送太学生阮漢英歸洪州
燈前昨夜話匆匆
馬首今朝跨曉風tông
望眼但懸天闕北
歸心寜住水溪東
槐庭月白憐棲鵲
蘆岸秋高惜別鴻
稻雪橙香村釀熟
塵埃嗟我絆孤踪
阮飛卿
Phiên âm
Tống thái học sinh Nguyễn Hán Anh quy Hồng Châu
Đăng tiền tạc dạ thoại thông thông
Mã thủ kim triêu khóa hiểu phong
Vọng nhãn đãn huyền thiên khuyết bắc
Quy tâm ninh trú thủy khê đông
Hòe đình nguyệt bạch lân thê thước
Lô ngạn thu cao tích biệt hồng
Đạo tuyết đăng hương thôn nhưỡng thục
Trần ai ta ngã bạn cô tung.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa
Tiễn thái học sinh Nguyễn Hán Anh về Hồng Châu
Đêm qua trước đèn chuyện trò vội vã
Sáng nay đã lên ngựa lướt gió sớm
Mắt chỉ trông bầu trời cửa bắc
Lòng về há ở bên khe nước miền đông
Thương chim thước đậu sân hoè dưới trăng sáng
Nhớ mãi chim hồng đã biệt xa nơi bờ lau trong tiết thu
Nếp trắng chanh thơm rượu quê vừa chín
Than cho tôi dấu chân cô đơn còn vướng bụi trần.
Dịch thơ
1.
Chuyện trò đêm trước dưới đèn trong
Gió sớm hôm nay vó ngựa lồng
Mắt ngóng luống treo trời cửa bắc
Lòng về há bận suối miền đông
Sân hòe trăng tỏ thương con thước
Ngàn sậy thu cao tiếc cái hồng
Nếp trắng chanh thơm hòa rượu xóm
Thương ta cát bụi vướng trong vòng.
Đào Phương Bình dịch
2.
Đêm qua trò chuyện trước đèn
Sáng nay gió sớm đã lên ngựa rồi
Mắt theo cửa bắc trông vời
Lòng về đã gửi bên ngòi xứ đông
Sân hòe chim thước ngóng trông
Lau thu biền biệt chim hồng nhớ thương
Chanh thơm nếp trắng rượu làng
Thương ta đơn độc còn vương bụi trần.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 56
病中懷洪州檢正
阮漢英秋夜韻
沉水烟消客夢清
寒燈無語傍人明
銀河耿耿流當户
黄葉蕭蕭落滿城
罨畫池臺秋著色
水銀世界月多情
豈因一病傖豪氣
睡起狂歌四壁驚
阮飛卿
Phiên âm
Bệnh trung hoài Hồng Châu kiểm chính
Nguyễn Hán Anh thu dạ vận
Trầm thủy yên tiêu khách mộng thanh
Hàn đăng vô ngữ bạng nhân minh
Ngân hà cảnh cảnh lưu đương hộ
Hoàng diệp tiêu tiêu lạc mãn thành
Yểm họa trì đài thu trước sắc
Thủy ngân thế giới nguyệt đa tình
Khởi nhân nhất bệnh thương hào khí
Thụy khởi cuồng ca tứ bích kinh.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa
Trong khi ốm nhớ vần thơ «Đêm thu »
của Nguyễn Hán Anh
Khói chìm tan giấc mộng của khách cũng tỉnh
Ngọn đèn xanh lặng thinh sáng gần người
Sông ngân vằng vặc đã xế ngang cửa
Lá vàng xao xác rơi xuống đầy thành
Mùa thu điểm xuyết bức tranh ao đài
Vầng trăng đa tình trong lòng nước bạc
Há vì một cơn ốm mà tổn thương hào khí
Ngủ dậy hát vang kinh động cả bốn bức vách.
Dịch thơ
1.
Khói trầm tan hết khách mơ thanh
Lặng lẽ đèn khuya sáng cạnh mình
Lấp lánh sông ngân ngang trước cửa
Lao xao lá úa rụng đầy thành
Lẳng lơ dì nguyệt ngâm lòng nước
Lộng lẫy đài thu dệt bức tranh
Hào khí há vì đau ốm giảm
Tỉnh dậy ngâm vang vách rung rinh.
2.
Tan khói vừa khi mộng tỉnh rồi
Lặng thinh đèn lạnh sáng bên người
Sông Ngân vằng vặc ngang ngang xế
Lá đỏ rì rào chốn chốn rơi
Điểm xuyết ao đài thu sắc họa
Đa tình đáy nước chị hằng phơi
Há vì trận ốm hao hào khí
Tỉnh dậy ngân nga hát váng trời.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 57
暮秋
歲晚天寒客易悲
騷人何必怨江籬
西風籬落菊殘後
夜雨湖山雁断時
老景逼人侵亹亹
秋光戀我去遅遅
薇垣清夢頭將白
正恐蓴鱸每負期
阮飛卿
Phiên âm
Mộ thu
Tuế vãn thiên hàn khách dị bi
Tao nhân hà tất oán Giang ly
Tây phong ly lạc cúc tàn hậu
Dạ vũ hồ sơn nhạn đoạn thì
Lão cảnh bức nhân xâm vỉ vỉ
Thu quang luyến ngã khứ trì trì
Vi viên thanh mộng đầu tương bạch
Chính khủng thuần lư mỗi phụ kỳ.
Nguyễn Phi Khanh
Dịch nghĩa
Cuối mùa thu
Năm tàn trời rét lòng khách dễ sinh sầu thương
Nhà thơ hà tất phải oán trách cỏ Giang ly (1)
Sau khi hoa cúc tàn sau bờ giậu trước làn gió tây
Là lúc bóng nhạn mất hút nơi núi hồ trong cảnh mưa đêm
Cảnh già bức bách người cứ lấn tới xồng xộc
Anh thu luyến tiếc ta trôi đi chầm chậm
Xong giấc mộng ở chốn vi viên (2) thì đầu sắp bạc
Chính là lúc do lỡ hẹn « rau thuần cá vược » (3)
Ghi chú
1.Giang ly : tên một giống cỏ thơm. Trong tác phẩm Ly tao của Khuất Nguyên có những câu : « Hỗ Giang ly dữ tích chỉ hề.../Tích tam hậu chi thuần túy hề / Cố chúng phương chi sở tại » (Ta choàng cỏ Giang ly và cỏ tích chỉ / ...Xưa ba vua (Vũ, Thang, Văn) sáng suốt / Cho nên các loại cỏ thơm mọc đúng chỗ). « Giang ly » là Khuất Nguyên tự chỉ mình. « Các lạo cỏ thơm mọc đúng chỗ » là chỉ những người tài giỏi trung thành được sử dụng xứng đáng. Ý hai câu 1 và 2 của Nguyễn Phi Khanh là : với cảnh năm tàn và trời đông giá rét thì con người dễ nảy sinh sầu cảm lắm rồi, không cần đợi phải gặp cảnh ngộ như Khuất Nguyên mới sầu oán.
2.Vi viên : tức Tử vi viên, còn gọi Tử vi sảnh, cũng gọi tắt là Vi viên hoặc Vi sảnh. Đó là tên gọi tòa Trung thư, một cơ quan trọng yếu của triều đình.
3.Rau thuần cá vược : Trương Hàn truyện, Tấn thư chép rằng, Trương Hàn người quận Ngô nước Tấn, trong khi làm quan ở xa, nhân gặp gió thu nổi lên lại nhớ tới thức ăn quê hương là canh rau thuần và chả cá vược, và than rằng : người ta sinh ra là cốt được thỏa cái thích của mình, vậy cớ sao mình lại cứ chịu ràng buộc với quan chức ở ngoài ngàn dặm để cầu danh tước ? Rồi Trương hàn thôi quan trở về quê hương.
Dịch thơ
1.
Cuối năm rét dễ gợi sầu lên
Thơ với Giang ly lọ oán phiền
Phên giậu cúc tàn sau gió lạnh
Núi hồ nhạn vắng khoảng mưa đêm
Lấn người cảnh lão đi nhanh quá
Yêu tớ làn thu thổi chậm thêm
Giấc mộng công danh đầu sắp bạc
Thuần lô đang sợ hẹn thành quên.
Đào Phương Bình dịch
2.
Cuối năm trời lạnh dễ buồn
Giang ly hà tất oán hờn chi đây
Cúc tàn bên giậu gió tây
Mưa đêm bóng nhạn ngừng bay núi hồ
Cảnh già xồng xộc như xô
Ánh thu tiếc lão nên từ từ qua
Vi viên xong mộng thì già
Rau thuần cá vược thôi đà lỡ duyên.
Đỗ Đình Tuân dịch
19/4/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét