Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Bảy, 14 tháng 7, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Trãi 20

LÀM TRONG THỜI KỲ ĐOÁN LÀ SANG TRUNG QUỐC (15 BÀI)
 
Bài 1
過海
Quá hải
 
撥盡閑愁獨倚蓬,
Bát tận nhàn sầu độc ỷ bồng,
水光渺渺思何窮。
Thuỷ quang diểu diểu tứ hà cùng.
松林地斥疆南北,
Tùng Lâm (1) địa xích cương Nam Bắc,
龍尾山橫限要衝。
Long Vĩ (2) sơn hoành hạn yếu xung.
義氣掃空千障雾,
Nghĩa khí tảo không thiên chướng vụ,
壯懷呼起半帆風。
Tráng hoài hô khởi bán phàm phong.
扁舟羨我朝天客,
Biển chu tiển ngã triều thiên khách (3),
直駕鯨鯢跨海東。
Trực giá kình nghê khóa hải Đông.
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi
 
Ghi chú
1. Theo Đại Nam Nhất Thống Chí, tại châu Vĩnh Yên  có trang Tùng Kính, trước thuộc nước ta, sau nhà Mạc hiến cho Trung Quốc. Có nghi vấn Tùng Lâm có thể là ở đấy.
2. Núi Bạch Long Vĩ tại châu Vạn Ninh, tỉnh Quảng Yên , cũng gọi là bán đảo vì dãy núi đi từ lục địa ra biển về hướng đảo Hải Nam của Trung Quốc; có lẽ được mệnh danh theo địa thế giống như đuôi rồng. Xưa thuyền bè qua đây thường bị sóng gió.
3. Đây cũng là một điểm nghi vấn vì tiểu sử tác giả không thấy đề cập việc công du sang Trung Quốc.
 
Dịch nghĩa
Qua biển
 
Gác bên mọi sầu muộn, một mình ta tựa mạn thuyền
Ánh nước mênh mông khó tả sao cho hết ý
Rừng tùng mở ra ranh giới chia Nam Bắc
Núi Long Vĩ chặn ngay chỗ hiểm yếu
Lòng nghĩa khí quét sạch mây mù
Chí anh hùng gọi gió thổi căng nửa cánh buồm
Thuyền con mừng ta làm khách đi chầu Thiên khuyết (Triều đình Trung Quốc)
Cưỡi cá kình vượt biển Đông.
 
Dịch thơ
Gác hết sầu bi dựa thuyền không
Mênh mông sóng nước ý khôn cùng
Rừng thông mở lối chia nam bắc
Long Vĩ nằm ngang chặn yếu xung
Nghĩa khí xua tan nghìn chướng khí
Anh hùng gió dậy nửa buồm căng
Thuyền con mừng kẻ chầu thiên khách
Cưỡi cá kình nghê vượt biển đông.
                    Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 2
潯州
Tầm Châu
 
潯州城下鼓鼙聲,
Tầm Châu (1) thành hạ cổ bề thanh,
客路還淹數月程。
Khách lộ hoàn yêm sổ nguyệt trình.
溪洞有氓山八萬,
Khê động hữu manh sơn bát vạn (2), 
成樓吹角月三更。
Thú lâu xuy giốc nguyệt tam canh.
岸篁瑟瑟悲風起,
Ngạn hoàng sắt sắt bi phong khởi,
江水悠悠旅夢清。
Giang thuỷ du du lữ mộng thanh. 
老我世途艱險熟,
Lão ngã thế đồ gian (3) hiểm thục, 
中宵不寐獨傷情。
Trung tiêu bất mị độc thương tình.
                                  阮廌
                           Nguyễn Trãi

Ghi chú
1. Một châu quận ở tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) nay là huyện Quế Bình. Xưa có lần lấy tên con sông Tầm Giang đặt cho quận, gọi là quận Tầm Giang.
2. heo Nguyễn Trãi Toàn Tập có ngọn núi tên là Bát Vạn ở Huệ Châu, gần Tầm Châu, tác giả mượn tên núi ấy chăng? Trong nghi vấn chúng tôi tạm xem "bát vạn" là dân số.
3. Các bản "Nguyễn Trãi toàn tập" và "Ức Trai tập" đều ghi sai là nan, tự dạng gần giống chữ gian.
 
Dịch nghĩa
Quận Tầm Châu
 
Dưới thành Tầm Châu vang tiếng trống
Hành trình của khách phải dừng lại ở đây mấy tháng
Trong khe động có dân miền núi ở hàng vạn (tám vạn)
Trên vọng gác vang tiếng tù và
Bờ tre gió thổi vi vu nỗi buồn man mác
Khách lữ hành mơ màng trên nước sông mênh mông
Ta đã già, đường đời gian khó đã thấm nhuần
Giữa đêm không ngủ, một mình riêng thương xót.
 
Dịch thơ
Tầm Châu thành hạ trống vang lừng
Đường khách qua đây mấy tháng dừng
Khe núi có dân chừng tám vạn
Tù và vọng gác suốt đêm vang
Bờ tre gió thổi buồn man mác
Sông nước mênh mông giấc nhẹ nhàng
Gian hiểm đường đời ta đã trải
Nằm đêm không ngủ nghĩ miên man.
                          Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 3
平南夜泊
Bình Nam dạ bạc
 
片帆高颭晚風輕,
Phiến phàm cao chiếm (1) vãn phong khinh,
暮宿平南古縣城。
Mộ túc Bình Nam (2) cổ huyện thành.
燈影照人和月影,
Đăng ảnh chiếu nhân hoà nguyệt ảnh,
樹聲敲夢併灘聲。
Thụ thanh xao mộng tính than thanh. 
湖山有約違初志,
Hồ sơn hữu ước vi sơ chí,
歲月如流漫此生。
Tuế nguyệt như lưu mạn thử sinh. 
夜半戍樓吹畫角,
Dạ bán thú lâu xuy hoạ giốc,
客中悽愴不勝情
Khách trung thê sảng bất thăng tình.
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi
 
Ghi chú
1. Có một phiên âm khác là triển
2. Một huyện ngày xưa thuộc phủ Tầm Châu trên sông Tầm Giang (Quảng Tây, Trung Quốc).
 
Dịch nghĩa
Đêm đậu thuyền ở Bình Nam
 
Cánh buồm giương phập phồng trong gió chiều thổi nhẹ
Buổi tối tá túc ở huyện thành cổ Bình Nam
Ánh đèn hòa cùng ánh trăng chiếu vào người
Tiếng cây cùng với tiếng thác nước xua giấc mộng
Chí nguyện trước với núi sông giờ đã bị vi phạm
Năm tháng như trôi qua cuộc đời uổng phí
Nửa đêm tù và thổi trên lầu canh
Trong lòng khách thương xót khôn xiết.
 
Dịch thơ
Gió chiều thổi nhẹ mảnh buồm căng
Tối trọ Bình Nam cổ huyện đường
Gió thổi thác reo xua giấc mộng
Ánh đèn soi mặt rọi cùng trăng
Núi sông ước nguyện sao vi phạm
Năm tháng trôi qua uổng quá chừng
Tiếng rúc tù và trên vọng gác
Nửa đêm lòng khách xót khôn cùng.
                  Đỗ Đình Tuân dịch

Bài 4
梧州
Ngô Châu (1)
 
路入青梧景更嘉,
Lộ nhập Thanh Ngô cảnh cánh gia,
岸邊陽柳映人家。
Ngạn biên dương liễu ánh  nhân gia. 
九疑積翠峰如玉,
Cửu Nghi (2) tích thuý phong như ngọc, 
二廣分流水若叉。
Nhị Quảng phân lưu thuỷ nhược xoa.
琳觀空聞飛白鶴,
Lâm Quán (4) không văn phi bạch hạc, 
仙人不見袖青蛇。
Tiên nhân (5) bất kiến tụ thanh xà. 
火山冰井真奇事,
Hoả sơn băng tỉnh chân kỳ sự,
舊俗相傳恐亦差。
Cựu tục tương truyền khủng diệc soa (6). 
                                阮廌
                           Nguyễn Trãi
   
Ghi chú
1. Ngô Châu: một châu quận thuộc tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) nay gọi là Thương Ngô hoặc Thanh Ngô.
3. Dãy núi gồm chín ngọn tại huyện Ninh Viễn, tỉnh Hồ Nam (Trung Quốc).
4. Quán Ngọc) Tức đền Bạch Hạc hoặc lầu Bạch Hạc (Bạch Hạc quán, Bạch Hạc lâu) tại thành Ngô Châu (quán thường chỉ đền thờ của Lão giáo).
5.Một loại danh thảo bốn mùa đều xanh tốt.
6. Một âm của chữ sai. Có bản chép là sa (?)
 
Dịch nghĩa
Quận Ngô Châu
 
Đường đến Thanh Ngô (Ngô Châu) cảnh lại càng đẹp
Dương liễu bên bờ rợp bóng nhà dân
Núi Cửu Nghi màu biếc nom như ngọc
Miền Lưỡng Quảng (Quảng Đông, Quảng Tây) 
                                             dòng nước chia như rẽ đôi
Đền Ngọc (Bạch hạc quán) thấy nói có hạc trắng bay
Trong (bụi) cây tiên nhân chẳng thấy có rắn xanh tụ tập
Núi lửa và giếng băng quả là chuyện lạ
Tục xưa truyền lại e có sai chăng ?
 
Dịch thơ
Đường tới Thanh Ngô cảnh đẹp ra
Hàng cây dương liễu mọc ven nhà
Cửu Nghi núi biếc nom như ngọc
Nhị Quảng chia dòng nước ngã ba
Quán ngọc từng nghe bay hạc trắng
Tiên nhân cây chẳng thấy thanh xà
Núi lửa giếng băng toàn chuyện lạ
Tục xưa truyền lạiu chẳng sai ngoa.
                     Đỗ Đình Tuân dịch

 
Bài 5
遊南華寺
Du Nam Hoa tự
 
神錫飛來幾百春,
 Thần tích (2) phi lai kỷ bách xuân,
寶林香火契前因。
Bảo Lâm hương hoả khế tiền nhân. 
降龍伏虎機何妙,
Hàng long phục hổ cơ hà diệu,
無樹非臺語若新。
Vô thụ phi đài (3) ngữ nhược tân.
殿側起樓藏佛缽,
Ðiện trắc khởi lâu tàng Phật bát,
龕中遺跡蛻真身。
Kham (4) trung di tích thuế chân thân. 
門前一派漕溪水,
Môn tiền nhất phái Tào Khê (5) thuỷ, 
洗盡人間劫劫塵。
Tẩy tận nhân gian kiếp kiếp trần.
                                 阮廌
                           Nguyễn Trãi
 
Ghi chú
1. Nam Hoa: một ngôi chùa lớn tại huyện Khúc Giang, tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc. Nguyên mang tên chùa Bảo Lâm, do nhà sư Ấn Độ Trí Dược lập vào năm 502 đời nhà Lương. Đến đời nhà Tống, chùa đổi tên là Nam Hoa.
2. Gậy thần bằng kim loại của các đạo sư biểu hiện cho thần lực. Còn được gọi là phi tích (gậy bay) vì tương truyền các đạo sư cưỡi gậy bay để di chuyển.
3. Sư Huệ Năng, tổ thứ sáu Thiền tông Trung Quốc có câu kệ sau:
Bồ đề bản vô thụ
Minh kiến diệc phi đài.
(Bồ đề vốn không có cây
Gương sáng cũng không có đài).
Ý nói truyền đạo thẳng vào tâm gọi là tâm ẩn, hoặc do tâm mà ra, không có hình thức cụ thể. Lại có câu thơ cũ:
Bồ đề vô thụ, kính phi đài
Vạn sự giai tòng tâm lí lai.
(Bồ đề không phải là cây thực, gương thì chẳng có đài
Vạn sự đều từ trong lòng mà đến.
4. Các bản Nguyễn Trãi Toàn Tập và Ức Trai Tập đều phiên là khám (có lẽ theo âm Việt chăng ?)
5. Con suối chảy qua trước chùa Nam Hoa, có thể xem như tượng trưng cho cảnh trí ở đây.
 
Dịch nghĩa
Chơi chùa Nam Hoa
 
Gậy thần tích bay đến đây đã mấy trăm xuân rồi
Hương hỏa chùa Bảo Lâm họp cùng nhân duyên trước.
Rồng giáng, hổ phục, mấy huyền vi thật thần diệu
"Không cây, cũng không đài" lời nói nghe như mới
Bên điện dựng lầu giữ gìn bát Phật
Trong hộp còn ghi dấu nhưng chân thân đã giải thoát
Một dòng suối Tào Khê tuôn trước cửa
Rửa sạch bụi bám đời đời cho nhân gian
 
Dịch thơ
Gậy bay đã tới mấy trăm xuân
Hương hỏa Bảo Lâm ước cổ nhân
Hổ phục rồng nằm bao thần diệu
Đài không cây chẳng lại thanh tân
Dựng lầu bên điện gìn âu Phật
Trong khám còn lưu dấu lột thân
Trước cửa Tào Khê dòng suối chảy
Nhân gian kiếp kiếp rũ phong trần.
                  Đỗ Đình Tuân dịch
12/6/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét