Bài 21
和友人烟霞寓興其三
Hoạ hữu nhân Yên hà ngụ hứng kỳ tam
仙書數卷舊生涯,
Tiên thư sổ quyển cựu sinh nha (nhai),
饑食松根嚼日華。
饑食松根嚼日華。
Cơ thực tùng căn (1) tước nhật hoa.
竹有千竿欄俗客,
竹有千竿欄俗客,
Trúc hữu thiên can lan tục khách,
塵無半點到山家。
塵無半點到山家。
Trần vô bán điểm đáo tiên gia.
瑤階鶴唳窗斜月,
瑤階鶴唳窗斜月,
Diêu giai hạc lệ (2) song tà nguyệt,
釣渚魚寒棹擱沙。
釣渚魚寒棹擱沙。
Điếu chử ngư hàn trạo các sa.
徒覺壺中風月好,
徒覺壺中風月好,
Đồ giác hồ trung phong nguyệt hảo,
年年不用一錢賒。
年年不用一錢賒。
Niên niên bất dụng nhất tiền xa.
阮廌
Nguyễn Trãi
阮廌
Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Đói thì ăn rễ cây thông (hay quả thông). Theo "Liệt Tiên Truyện", Ốc Thuyên ngày xưa tu tiên, lấy quả thông làm thực phẩm nên thân thể nhẹ nhõm, có thể đi nhanh như ngựa phi. Theo truyền thuyết, những ai sống theo chế độ này (ăn rễ thông, sống dưới ánh sáng mặt trời) có thể sống thọ đến vài ba trăm năm).
2.Tiếng kêu của chim hạc. Trong Truyện Kiều của Nguyễn Du có hai câu thơ: "Cầm đường ngày tháng thanh nhàn; Sớm khuya tiếng hạc tiếng đàn tiêu dao" nói về Triệu Biên đời nhà Tấn (Trung Quốc) làm quan dời đến nhiệm sở nào cũng chỉ mang theo một cây đàn (do đó chữ cầm đường) và một con hạc. Một biểu tượng về lối sống bình dị của một quan chức thanh liêm. Nguyễn Trãi nói về hạc lệ trong ý tưởng ấy, cũng như cơ thực tùng căn).
Dịch nghĩa
Hoạ bài thơ "Yên hà ngụ hứng" của bạn kỳ 3
Vài cuốn sách tiên vốn sinh nhai cũ
Đói thì ăn rễ tùng và hớp ánh sáng mặt trời
Trúc có cả nghìn cây để ngăn khách tục khỏi đến
Không có lấy nửa hạt bụi vướng cảnh nhà tiên (nhà trong núi)
Hạc kêu ở thềm ngọc, trăng chiếu qua song cửa
Bến câu cá lạnh lẽo, mái chèo gác trên cát
Tự mình biết có trăng đẹp trong bầu thời gian
Năm này qua năm khác chẳng hề tốn tiền mua.
Dịch thơ
Sách tiên mấy quyển vốn sinh nha (nhai)
Đói nhá rễ thông nhấm nắng tà
Trúc có nghìn cây rào khách tục
Bụi không một hạt đến sơn gia
Hạc kêu thềm ngọc trăng soi cửa
Bến lạnh ngồi câu mái gác bờ
Biết có trong bầu trăng gió đẹp
Quanh năm không mất một đồng ra.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 22
送僧道謙歸山
Tống tăng Ðạo Khiêm quy sơn
記曾講學十餘年,
Ký tằng giảng học thập dư niên,
今又相逢一夜眠。
Kim hựu tương phùng nhất dạ miên.
且喜夢中拋俗事,
Thả hỷ mộng trung phao tục sự,
更尋石上話前緣。
Cánh tầm thạch thượng thoại tiền duyên.
明朝靈浦還飛錫,
Minh triêu Linh phố (1) hoàn phi tích (2),
何日崑山共聽泉。
Hà nhật Côn Sơn (3) cộng thính tuyền ?
老去狂言休怪我,
Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã,
臨岐我亦上乘禪。
Lâm kỳ ngã diệt Thượng Thừa Thiền.
阮廌
Nguyễn Trãi
Tống tăng Ðạo Khiêm quy sơn
記曾講學十餘年,
Ký tằng giảng học thập dư niên,
今又相逢一夜眠。
Kim hựu tương phùng nhất dạ miên.
且喜夢中拋俗事,
Thả hỷ mộng trung phao tục sự,
更尋石上話前緣。
Cánh tầm thạch thượng thoại tiền duyên.
明朝靈浦還飛錫,
Minh triêu Linh phố (1) hoàn phi tích (2),
何日崑山共聽泉。
Hà nhật Côn Sơn (3) cộng thính tuyền ?
老去狂言休怪我,
Lão khứ cuồng ngôn hưu quái ngã,
臨岐我亦上乘禪。
Lâm kỳ ngã diệt Thượng Thừa Thiền.
阮廌
Nguyễn Trãi
Ghi chú
1.Bến sông Chí Linh ở huyện Chí Linh phía tả ngạn sông Lục Đầu, chỗ nhà sư tu hành.
2.(hèo bay) Tương truyền các đạo sư cưỡi gậy bay để di chuyển.
3.Một ngọn núi ở xã Chí Ngại, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương , trên núi có động Thanh Hư, dưới có cầu Thấu Ngọc, đều là thắng cảnh (theo sách Quảng Dư Chí). Đời Trần, Trúc Lâm thiền sư dựng am ở đây, và trạng nguyên Lý Đạo Tái (tức sư Huyền Quang) sau khi từ chức trở về nhập thiền và trụ trì chùa Ân Tứ ở núi này. Triều Trần, quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, ông ngoại của Nguyễn Trãi, thường ngâm thơ uống rượu ở núi Côn Sơn sau khi từ chức vì can gián Hồ Quý Ly chuyên quyền mà không được. Tác giả từng thừa hưởng cơ ngơi của ông ngoại.
Dịch nghĩa
Tiễn sư Đạo Khiêm về núi
Nhớ từng giảng học hơn mười năm
Nay lại gặp nhau ngủ một đêm với nhau
Vả mừng trong mộng bỏ hết việc tục;
Lại tìm lên núi để nói chuyện tiền duyên.
Rạng mai sẽ bay gậy về bến Chí Linh;
Ngày nào mới cùng nghe suối ở Côn Sơn được ?
Già rồi hay nói cuồng, đừng lạ ta
Từ biệt nhau rồi thì ta cũng sẽ tu đạo Thiền Thượng Thừa
Dịch thơ
Nhớ từng giảng học ngoại mười niên
Nay mới gặp nhau ngủ một đêm
Vả thấy trong mơ quên việc tục
Lại tìm lên núi chuyện tiền duyên
Sáng mai bay gậy vệ Linh bến
Bao nữa cùng nghe tiếng suối quen
Già cả nói ngông đừng có lạ
Biệt nhau ta cũng sẽ theo thiền.
Đỗ Đình Tuân dịch
Bài 23
海口夜泊有感
Hải khẩu dạ bạc hữu cảm (II)
湖海年來興未闌,
Hồ hải niên lai hứng vị lan
乾坤到處覺心寬。
乾坤到處覺心寬。
Càn khôn đáo xứ giác tâm khoan.
眼邊春色薰人醉,
眼邊春色薰人醉,
Nhãn biên xuân sắc huân nhân tuý,
枕上潮聲入夢寒。
枕上潮聲入夢寒。
Chẩm thượng triều thanh nhập mộng hàn.
歲月無情雙鬢白,
歲月無情雙鬢白,
Tuế nguyệt vô tình song mấn bạch,
君親在念寸心丹。
君親在念寸心丹。
Quân thân tại niệm thốn tâm đan.
一生事業殊堪笑,
一生事業殊堪笑,
Nhất sinh sự nghiệp thù kham tiếu,
嬴得虛名落世間。
嬴得虛名落世間。
Doanh đắc phù sinh lạc thế gian.
Dịch nghĩa
Cảm hứng đêm đậu thuyền ở cửa biển (II)
Hứng hải hồ những năm lại đây chưa thấy tàn
Đến đâu trong trời đất cũng cảm thấy lòng
khoan khoái ung dung
Sắc mùa xuân như xông vào mắt khiến ngây ngất
Thủy triều vỗ mạnh trên gối nghe lạnh lùng
Năm tháng qua không ngờ mái tóc đã bạc
Vẫn để dạ một lòng với vua và cha
Sự nghiệp một đời qua là đáng cười
Lãi chăng là được chút danh hão giữa thế gian.
Đến đâu trong trời đất cũng cảm thấy lòng
khoan khoái ung dung
Sắc mùa xuân như xông vào mắt khiến ngây ngất
Thủy triều vỗ mạnh trên gối nghe lạnh lùng
Năm tháng qua không ngờ mái tóc đã bạc
Vẫn để dạ một lòng với vua và cha
Sự nghiệp một đời qua là đáng cười
Lãi chăng là được chút danh hão giữa thế gian.
Dịch thơ
Hồ hải lâu nay hứng vẫn nồng
Đất trời đâu thấy vẫn thung dung
Sắc xuân xông mắt lòng ngây ngất
Sóng vỗ rung mơ thấy lạnh lùng
Năm tháng vô tình hai mái bạc
Vua cha vẫn để một bên lòng
Một đời sự nghiệp cười thay vậy
Có lãi chăng là chút tiếng không.
Đỗ Đình Tuân dịch
3/6/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét