Vũ Phạm Hàm
(1864-1906)
Vũ Phạm Hàm, tự Mộng Hải, hiệu Thư
Trì, người làng Đôn Thư, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà Đông, nay thuộc tỉnh Hà
Nội. Ông thuộc dòng dõi nhà nho thanh bạch. Năm 13 tuổi đã đi thi nhưng không
đỗ. Sau đó ông được quan đốc học tên là Vũ Nhự chú ý và nhận nuôi dạy. Năm năm sau, ông được vào
làm quan trong kinh đô Huế, theo học quan Nam Ngư Phạm Hy Lượng. Đến năm Kiến
Phúc, ông vào thi hương đỗ Giải nguyên khoa Giáp Thân(1884). Năm sau thi hội
lại hỏng. Mãi đến năm Thành Thái thứ 4, khi đang làm Giáo thụ ở Kiến Thụy (Hải
Phòng ngày nay), ông lại đi thi Hội, đậu Hội nguyên khoa Nhâm Thìn; Sau đó vào
thi Đình, ông lại đậu Đệ nhất giáp tiến sĩ, đệ tam danh, tức Tam nguyên thám
hoa. Sau khi đỗ đại khoa, ông lần lượt được giữ các chức quan: Đốc học Hưng
Hóa, Đốc học Hà Nội, sung Đồng văn quán, làm Đốc biện Đại Nam đồng văn
nhật báo. Sau thăng đến An sát Hưng Hóa rồi An sát Hải Dương.
Tương truyền khi làm án sát Hải Dương,
có tên công sứ Pháp thích chơi hoành phi câu đối, vốn biết ông là bậc danh nho
mới xin một bức làm kỷ niệm. Ông đã cho hắn 4 chữ : “Ôn kỳ như ngọc”, lấy chữ
trong Kinh thi, thiên Tần phong:
Ngôn niệm quân tử ôn kỳ như
ngọc
(Mến người quân tử ôn hòa như ngọc quý)
Chủ tâm ông Thám muốn lấy điển Tần
phong là thơ khen người rợ phương tây để tặng công sứ Pháp. Thâm ý của ông
thật là sâu sắc và kín đáo: ám chỉ bọn Pháp chỉ là mọi rợ như Tây Nhung khi xưa
ở bên Tầu.Viên công sứ Pháp tất nhiên là chẳng hiểu gì. Hắn trịnh trọng treo
bức hoành phi sơn son thiếp vàng giữa nhà khách. Nhưng không may cho ông
Thám, có một viên quan vốn bất bình với ông, nhân một dịp vào yết kiến quan
công sứ, đứng ngắm nhìn bức hoành phi, khen kiểu chữ đẹp chữ tốt, rồi trầm ngâm
gật đầu nói khẽ:
-Bốn chữ này tuy là khen tặng nhưng
có bao hàm ý giễu cợt quan lớn thì phải.
Viên công sứ ngạc nhiên bảo cắt
nghĩa,viên quan đó nói:
-Ngọc đây nói bóng là ngọc hành, mà
ngọc hành là “cái ấy” quan lớn hiểu chưa, không tin quan lớn cứ hỏi mọi người
thì rõ.
Sau đó, viên công sứ gặp ai cũng chỉ
vào đũng quần hỏi: cái này là cái gì? Nhưng không ai dám nói thật ra cả.Viên
công sứ giận sôi lên sùng sục. Hắn bèn cho trẻ đôi bức hoành phi và tìm ông
Thám để trách cứ.Từ đó ông bị nó làm khó dễ trong công vụ. Ông cáo quan về nghỉ
.Về quê, ông mở trường dậy học. Học trò các nơi về học rất đông và nhiều người
thành đạt. Năm 1906 ông bị bệnh và mất tại quê nhà.
Vũ Phạm Hàm có để lại các tập thơ,
văn chữ Hán như: Kinh sử thi tập, Tập Đường thuật hoài, Thám hoa
văn tập...và một bài Hương Sơn phong cảnh bằng chữ Nôm.
Với Chí Linh, ông để lại đôi câu đối
hết sức nổi tiếng ở đền Kiếp Bạc:
萬刧有山皆剑氣
六頭無水不秋聲
Vạn Kiếp hữu
sơn giai kiếm khí
Lục Đầu vô thủy bất thu thanh
(Tất cả những núi ở Vạn Kiếp đều mang hơi kiếm;
Nước sông Lục Đầu chỗ
nào cũng có tiếng thu)
Một lời dịch thường
gặp của câu đối này là:
Vạn Kiếp núi lồng hình kiếm dựng;
Lục
Đầu sông dậy tiếng quân reo.
(Không rõ dịch giả)
Nhưng lời dịch này
thật ra chưa ổn. Ở vế trên “Kiếm khí” sao lại có thể dịch là “hình kiếm dựng” ?
Bởi “khí” tức là hơi, một thứ năng lượng vô hình như sức mạnh tinh thần, như uy thế toát
ra chứ sao lại “dựng hình lên” . Vả lại, núi Vạn Kiếp đều là những ngọn đồi
thấp chứ đâu có nhọn hoắt trùng điệp gì để gợi ra hình ảnh của những mũi kiếm? Chẳng qua
đây chỉ là hình ảnh mang tính biểu tượng. Còn ở vế dưới “thu thanh” (tiếng mùa
thu) mà dịch thành “tiếng quân reo” thì hơi xa chữ gốc, và nhất là dịch thế chưa chắc đã đủ nghĩa do hai chữ "tiếng thu" gợi ra.
Vậy thì “thu thanh” (tiếng thu) phải
hiểu như thế nào cho ổn? Chính vì hai chữ “thu thanh” khó giải mã này mà nhiều
thức giả đã phải tranh cãi với nhau kéo dài đến hàng nửa thế kỷ mà cơ hồ vẫn
chưa có hồi kết. Đại để cũng chia ra làm hai phái chính. Phái phản bác thì cho “thu thanh” là sai, mà đúng ra thì phải là
“thung thanh” hoặc “trang thanh” ( tiếng đóng cọc gỗ, tiếng khua gươm giáo…).
Cực đoan có người còn đề nghị đục bỏ chữ “thu” để đắp chữ “thung” hoặc chữ
“trang” vào. Phái bênh vực thì vẫn
tôn trọng nguyên trạng là “thu thanh”, nhưng hiểu “thu thanh” là tiếng mùa thu
theo tinh thần của bài Thu thanh phú của
Âu Dương Tu bên Trung Quốc:
Âu
Dương Tu ban đêm đọc sách
Nghe tiếng kêu từ vách Tây Nam
Lạ thay : thoạt mới rì rầm,
Vi vu rồi chợt sầm sầm vang xa
Như sóng nước bao la kinh động
Ðêm gió mưa thổi lộng ngàn cây
Tiếng vàng, tiếng sắt đâu đây
Ðoàn quân lớp lớp bao vây đổ về
Chẳng ai thấy ai nghe hiệu lệnh
Vó ngựa phi khấp khểnh đường trường...
(Theo bản dịch của Hà Thương Nhân)
Nghe tiếng kêu từ vách Tây Nam
Lạ thay : thoạt mới rì rầm,
Vi vu rồi chợt sầm sầm vang xa
Như sóng nước bao la kinh động
Ðêm gió mưa thổi lộng ngàn cây
Tiếng vàng, tiếng sắt đâu đây
Ðoàn quân lớp lớp bao vây đổ về
Chẳng ai thấy ai nghe hiệu lệnh
Vó ngựa phi khấp khểnh đường trường...
(Theo bản dịch của Hà Thương Nhân)
Những người thợ cày làng tôi, lớp tuổi bố
tôi ngày trước, đôi khi cũng mang ra đàm đạo về câu đối này. Những buổi đi đón
trâu, nghe lỏm chuyện các cụ tôi thấy các cụ lại hiểu “thu thanh” là “tiếng mùa
thu”, với ý nghĩa là mùa thu trẩy hội đền Bạc. Bởi ngày xưa, giao thông cách
nhỡ, thường chỉ có dân quanh vùng là đi lễ đền Bạc bằng đường bộ. Còn dân thập
phương chủ yếu đi bằng thuyền. Vì thế cứ vào dịp hội đền tháng tám là dòng sông
Lục Đầu nô nức, náo nhiệt hẳn lên. Ban ngày thì trên bến dưới thuyền nhộn
nhịp, ban đêm thì đèn đuốc như sao sa, thật là ấn tượng. Hình ảnh con sông Lục
Đầu những mùa trẩy hội (Tháng tám giỗ cha) ấy vừa là biểu hiện cụ
thể của lòng tri ân, lòng yêu nước
của nhân dân ta, mà cũng rất gợi cái không khí những cánh quân ngày
trước, từ
khắp các nơi trong nước đổ về đây để chờ lệnh đi đánh giặc. Cái “tiếng
thu” các
cụ hiểu lại là như vậy. Rất có thể đây mới là cái "tiếng thu" của Lục
Đầu, Vạn Kiếp chăng? Thế nên, với cặp câu đối trên, nếu cần dịch thì chỉ
nên dịch là:
Núi Vạn Kiếp đều mang uy kiếm
Sông Lục đầu đâu chẳng tiếng
thu.
27/10/2012
Đỗ
Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét