Tháng Tư vừa rồi, NKN tranh thủ về thăm anh Bùi Quang Thận, đại đội trưởng cũ một chuyến. Về nhà, viết một mẩu và đã được báo QDND đăng trên số cuối tuần: http://www.qdnd.vn/qdndsite/vi-VN/91/68/72/72/72/186905/Default.aspx
Tuy nhiên, chắc là do khuôn khổ tờ báo có hạn nên đã bị "gọt" đi khá nhiều. Vậy xin đăng lại nguyên văn ở đây cho bà con xóm ta cùng đọc:
Cứ mỗi độ tháng Tư về, hẳn mỗi cựu chiến binh đều thấy xốn xang trong lòng nhớ về những ngày tháng hào hùng mấy mươi năm trước. Nhiều cuộc gặp mặt được diễn ra, nhiều chuyến đi về thăm chiến trường xưa được tổ chức… Với những người lính của đại đội 4 thuộc Lữ đoàn xe tăng 203 chúng tôi cũng vậy.
Năm nay, nhân dịp kỷ niệm 40 năm giải phóng Quảng Trị và 37 năm ngày giải phóng miền Nam, thống nhất nước nhà, Hội Bạn chiến đấu của đoàn xe tăng 203 quyết định gặp mặt truyền thống sớm hơn thường lệ. Thay mặt Ban liên lạc, tôi gọi điện mời anh Bùi Quang Thận, đại đội trưởng cũ của mình về dự. Từ đầu bên kia, một giọng nói hơi có phần mệt mỏi trả lời: “Tớ dạo này không được khỏe- Ngưng một lát, anh tiếp- Nhưng được rồi. Tớ sẽ cố gắng thu xếp để về dự với anh em”. Bỗng dưng tôi thấy buồn buồn. Còn đâu giọng nói mạnh mẽ, dứt khoát hơi có phần băm bổ mà năm ngoái tôi còn được nghe. Nhẩm tính trong đầu, cũng phải thôi- năm nay anh đã gần 70 rồi còn gì. Lại còn mang trong mình bao di chứng của vết thương, của sốt rét và có khi có cả chất độc da cam nữa thì làm sao mà khỏe được. Vốn quan niệm “đã đi qua một cuộc chiến tranh khốc liệt như vậy mà còn vác được cái xác về nhà là một may mắn lớn rồi, bây giờ cứ gặp nhau được lần nào là lãi lần ấy” nên tôi rất chịu khó đi tìm và đến thăm nhà các đồng đội cũ. Nhưng nhà của anh- của đại đội trưởng thì tôi lại chưa bao giờ đến thăm được. Thực ra, chẳng có lý do gì đặc biệt mà chủ yếu là do điều kiện công tác, hai anh em tôi thỉnh thoảng vẫn được gặp nhau. Nhưng lần này thì tôi quyết phải về thăm nhà anh, không lần lữa nữa.
Từ Hà Nội về Thụy Xuân, Thái Thụy quê anh nghe nói giờ đã có xe khách chạy thẳng song để chủ động hơn, tôi rủ chú em rể - một kỹ sư xây dựng cũng quê Thái Bình, có con xe cà tàng chuyên chạy công trường cùng về. Nghe tôi rủ về thăm anh Thận, hắn hỏi lại: “Anh hùng Bùi Quang Thận, người cắm cờ trên dinh Độc Lập ấy à? Thế thì OK!”. Tôi gật đầu luôn và cũng chẳng cải chính nữa. Anh không là anh hùng nhưng những người bình thường như chú em tôi phong anh là anh hùng thì càng quý chứ sao! Thế là hai anh em lên đường luôn.
Chú em, mặc dù là dân xây dựng, lại ít tuổi, chưa từng kinh qua quân ngũ và trận mạc song cũng là người ham đọc và hay chuyện. Hắn cũng đọc cuốn “Hành trình đến dinh Độc Lập” của tôi viết về đại đội mình rồi nên hai anh em chuyện trò sôi nổi lắm. Hắn còn tọc mạch hỏi thêm về những chi tiết mà tôi chưa có điều kiện kể lại trong cuốn truyện ký đó, làm tôi càng bồi hồi nhớ về những ngày tháng gian khổ mà hào hùng, đau thương mà lãng mạn… ấy. Quả thật, số phận cái đại đội xe tăng 4 của chúng tôi cũng lắm truân chuyên, cũng nhiều gian khổ song cũng thật là vinh dự. Năm 1972, khi đang chuẩn bị tham gia chiến dịch Quảng Trị thì đại đội tôi được rút khỏi đội hình Lữ đoàn 203 để đi độc lập vào khu vực A Lưới với nhiệm vụ “làm một mũi dao thọc vào mạng sườn quân địch ở Huế”. Tổ chức cho một đại đội xe tăng hành quân độc lập đường dài, phải vượt qua dãy Trường Sơn sang Lào rồi vòng về Việt Nam trong điều kiện không quân Mỹ ngăn chặn quyết liệt không hề đơn giản chút nào. Ấy thế nhưng sau hơn nửa tháng hành quân, chúng tôi cũng đã đến vị trí tập kết mà cấp trên quy định. Tuy nhiên, cái giá phải trả là xe tăng số 388 cùng 4 chiến sĩ đã mãi mãi không trở về cùng với đội hình. Tiếp đó là những ngày gian khổ của mùa mưa năm 1972 ven con sông Bồ trên đường 72 (bây giờ là quốc lộ 49 nối Huế với A Lưới). Đường thì sạt lở, xe không cơ động được. Trên trời là máy bay đánh phá. Dưới đất thì địch nống ra, có khi chỉ cách vị trí trú quân 3 - 4 ki- lô- mét, tưởng chừng chỉ còn quyết tử, một mất một còn với chúng đến nơi… Bám trụ gần 1 năm ở đó, thêm 3 chiến sỹ hy sinh và hàng chục người bị thương vì bom, vì pháo, vì sốt rét mãi đến khi Hiệp định Pa- ri chuẩn bị được ký kết mới xuất trận đầu tiên - đánh chiếm cứ điểm Tà Lương mở rộng vùng giải phóng. Tiếp đó là hơn hai năm ẩn mình chờ thời cơ ở A Lưới. Và đến Mùa Xuân 1975, đại đội tôi đã đánh một mạch từ Núi Bông, Huế, Thuận An, Đà Nẵng cho đến chiến dịch cuối cùng - Chiến dịch Hồ Chí Minh. Trong chiến dịch này, đại đội 4 được bố trí trong thê đội 1 của binh đoàn thọc sâu của Quân đoàn 2 nên chưa tham chiến trong những ngày đầu. Tuy nhiên, khi đơn vị bạn đánh ba trận không chọc thủng được phòng tuyến Nước Trong, Lữ đoàn lại phải tung đại đội 4 vào đột phá. Chỉ một trận ngày 29.4, cánh cửa Nước Trong đã mở toang, cả binh đoàn thọc sâu ào về Sài Gòn như thác lũ. Tại Nước Trong này, đại đội cũng phải để lại một liệt sỹ, đó là Nguyễn Kim Duyệt, pháo hai xe 380 của tôi. Và kết cục thì như các bạn đã biết, đại đội 4 lại một lần nữa dẫn đầu đội hình xung phong qua cầu Sài Gòn đánh thẳng vào dinh Độc Lập. Xe 843 của anh và xe 390 của chính trị viên Vũ Đăng Toàn chỉ huy đã húc đổ cánh cổng dinh Độc Lập. Còn anh, với lá cờ giải phóng trong tay chạy thẳng vào dinh trong lúc không biết lực lượng địch trong đó thế nào để rồi đi vào lịch sử.
Nghe thủng chuyện, thằng em tấm tắc: “Đọc Hành trình đến dinh Độc Lập em cũng đã hình dung ra chiến công của đại đội anh nhưng bây giờ nghe anh kể em mới thấy sách vẫn còn sơ lược lắm”. Tôi xuê xoa: “Chú thông cảm! Có những chuyện kể được nhưng viết không được. Với lại, nếu kể hết thì phải mất hàng nghìn trang, ai người ta in cho”. Bất ngờ, hắn tung ra một câu hỏi: “Thế thì đại đội anh cũng được phong anh hùng chứ nhỉ?”. Tôi chỉ trả lời ngắn gọn: “không” rồi thẫn thờ nhớ về những ngày bình công, báo công ở Tổng kho Long Bình - nơi Lữ đoàn 203 về tập kết sau chiến dịch. Lần đó, ngoài việc đề nghị tặng huân chương cho tất cả các xe và anh em trong đại đội, chúng tôi cũng mạnh dạn đề nghị trên xét phong anh hùng cho đại đội và cá nhân anh Bùi Quang Thận. Tuy nhiên, sau đó không thấy trên công nhận mà chỉ thấy cả lữ đoàn được tuyên dương anh hùng LLVTND cùng với lời giải thích: “Cả lữ đoàn anh hùng thì tất cả các đơn vị, cá nhân trong lữ đoàn là anh hùng rồi còn gì mà thắc mắc”. Lúc đó, chúng tôi vui vẻ chấp nhận nhưng sau này vẫn thấy tiếc vì những đơn vị khác người ta cũng tuyên dương anh hùng cả lữ đoàn nhưng vẫn có cá nhân và đơn vị cấp dưới được tuyên dương. Chú em lại tiếp tục truy vấn thành ra tôi lại phải giải thích dài dài. Cũng xin nói thêm, năm 2009, Trung đoàn 203 hiện nay đã có công văn đề nghị cấp trên xét tặng danh hiệu anh hùng LLVTND cho đại đội 4 và đại đội trưởng Bùi Quang Thận song không biết “tắc” ở khâu nào đó mà đến nay cũng chưa thấy hồi âm gì.
Vừa đi vừa chuyện trò, mãi gần 16 giờ hai anh em tôi mới đến nhà anh Thận. Đậu xe ngay cái bãi rộng cổng chợ Bàng, hỏi thăm một chị dáng chừng vừa đi chợ về. Chị hỏi lại: “Ông Thận cắm cờ chứ gì?” rồi chỉ ngay ngôi nhà gần đó khi chúng tôi gật đầu. Ồ, thì ra cơ ngơi “đại trưởng” của tôi cũng khá đấy chứ. Một ngôi nhà ba tầng khá khang trang, trên ban công là lá quốc kỳ đang bay nhè nhẹ. Tầng một là gian hàng tạp hóa, bán đủ thứ linh tinh. Tôi nghĩ bụng: “Có lẽ anh đã đổi nghề” vì năm trước gặp nhau nghe anh nói bán bếp ga cơ mà.
Đón chúng tôi ngoài cửa, anh hoan hỉ nhưng nghe ra vẫn có giọng trách móc: “Cuối cùng rồi thằng em cũng xuống thăm nhà anh được một lần”. Tôi chăm chú nhìn anh. Đúng là thần sắc anh không được như mọi năm. Biết lỗi, tôi đành xuê xoa: “Thì thỉnh thoảng anh em mình vẫn gặp nhau cơ mà. Nhưng đúng là đợt này trông anh không được khỏe”. Anh cười buồn: “Gần 70 rồi còn khỏe được với ai. Dạo này ăn chẳng thấy gì ngon, người cứ mệt rũ ra. Anh đang định đi kiểm tra lại sức khỏe một chút”. Biết cái Huế, con gái lớn của anh đang làm ở QYV 354, tôi tham mưu: “Anh cứ lên chỗ cháu mà khám rồi ở lại chơi với bọn em mấy hôm”. Anh gật đầu: “Có lẽ anh sẽ lên đó”.
Lại nói chuyện con cái anh. Gần 3 năm gắn bó với chiến trường Trị Thiên, cái thành phố Huế vừa gần gũi ngay trước mặt lại vừa vời vợi xa đó trở thành nỗi niềm ám ảnh đối với mỗi chúng tôi. Người thì mơ về lấy vợ Huế, kẻ thì thèm một lần đi đò sông Hương… Còn anh Thận thiết thực hơn. Năm 1974, được đi phép lấy vợ. Khi trả phép anh dặn: “Nếu sinh con gái thì đặt tên là Huế, nếu sinh con trai thì đặt tên là Thành”. Kết quả, đúng như anh mong muốn song anh chị vượt kế hoạch và có thêm cái Huệ. Bây giờ cái Huế, cái Huệ ở Hà Nội, còn thằng Thành thì lại ở tận thành phố Hồ Chí Minh. Cũng vì các con đi xa cả, ở nhà chỉ còn hai vợ chồng, sức khỏe càng ngày càng kém nên anh chị đã phải “đổi nghề”. Cửa hàng bán bếp ga đang làm ăn được song anh quyết định nghỉ “cho đỡ mệt”. Cái tầng một mặt tiền cho đứa cháu mở quầy tạp hóa. Mấy mẫu đầm nuôi thủy sản cũng cho cháu làm gần hết, anh chị chỉ giữ lại một vuông mà thôi. Mọi chi tiêu bây giờ chỉ còn lương hưu của anh nhưng ở nông thôn thế này cũng tạm đủ.
Thấy chị sửa soạn ra đầm cho cá ăn, tôi đòi đi theo. Còn chú em, chắc gặp được thần tượng cùng quê nên muốn ở nhà nói chuyện với anh. Đầm nuôi cách nhà chừng hơn ki- lô- mét, hai chị em vừa đi vừa nói chuyện. Chị thủ thỉ: “Làm đầm cũng vất vả lắm, vốn liếng bỏ ra lớn nhưng lại phụ thuộc nhiều vào thời tiết. Có năm mưa bão vỡ cả bờ, mất sạch. Năm thì tôm cá bị bệnh nên chẳng được bao nhiêu… Thế nên anh định bỏ hết nhưng chị muốn giữ lại một vuông. Chủ yếu để có công việc, mỗi ngày vận động một tý cho khỏe người mà cũng vui, chú ạ”. Chả mấy chốc, hai chị em đã ra đến đầm. Phải nói rằng đầm nuôi thủy sản ở vùng này được đầu tư khá tốt. Tất cả các vuông đầm đều được kè bê tông, đường đi trên mặt đầm cũng láng xi măng, các vuông đầm đều có cổng tháo ra kênh chung để thay nước khi cần… Vừa nhặt mớ cá con ném xuống đầm cho cá ăn, chị vừa rủ rỉ: “Năm nay anh chị chỉ làm mỗi vuông này thôi, thả có 300 con cá vược. Thế mà mỗi ngày cũng mất mấy chục nghìn tiền cá con cho nó ăn đấy”. Tôi ngạc nhiên: “Sao không cho nó ăn thức ăn công nghiệp?. Chị cười: “Thứ đó, giống này nó không ăn. Cứ phải cá con mà còn tươi cơ”. Vậy là thứ cá này cũng thuộc loại khó tính đây.
Chiều xuống dần. Vầng mặt trời đỏ ối sắp khuất sau rặng chuối hai chị em mới tất tả ra về. Anh Thận bảo: “Chả mấy khi chú về, ở lại ăn cơm với anh chị. Nhà ngay cổng chợ, tiện lắm”. Tôi đang định gật đầu thì thằng em nhanh nhảu: “Hôm nay, được gặp anh Thận ở đây thật là quý hóa. Nhà em cũng gần đây. Em mời anh chị lên đó dùng cơm với ông cụ nhà em. Em đã điện về nhà rồi”. Có lẽ cũng thấy thằng em tôi quá nhiệt tình nên anh đồng ý nhưng chỉ đi một mình, còn chị phải ở nhà trông nhà và dọn dẹp.
Thì ra nhà chú em tôi cách đó cũng không xa lắm. Đón anh em tôi không chỉ có ông cụ thân sinh ra nó mà còn một số anh em khác. Họ vui vì chú em lâu lâu mới về thăm nhà song cũng hồ hởi bởi được đón tiếp một con người nổi tiếng của quê hương. Chú em tôi được một bữa tuyên truyền hết sức nhiệt tình về chiến công, thành tích của đại đội 4 và cá nhân anh Thận. Lát sau, tiệc được dọn ra, toàn hải sản cùng với rượu vod- ka Hà Nội. Họ thi nhau chúc rượu anh em tôi nhưng anh Thận xin phép chỉ “nhấp môi” vì dạo này không được khỏe. Mà thế thật! Trước đây, có ai mời anh chẳng từ chối bao giờ. Những người nông dân chân chất của miền quê Thái Bình có chút men vào càng sôi nổi. Họ tự hào về mảnh đất quê hương mình đã sản sinh ra rất nhiều người con nổi tiếng. Trong kháng chiến chống Pháp có anh hùng Nguyễn Thị Chiên dùng đòn gánh đánh Tây, có anh hùng Tạ Quốc Luật bắt sống tướng Đờ Cát ở Điện Biên Phủ. Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước có anh hùng Phạm Tuân bắn rơi B52, sau đó còn lên cả vũ trụ và anh hùng Bùi Quang Thận cắm cờ trên dinh Độc Lập, báo hiệu giờ toàn thắng. Nghe đến đó, anh Thận cười khiêm tốn: “Các bác đừng nói thế. Tôi không phải anh hùng đâu! Cả đại đội tôi cũng vậy”. Tất cả những người có mặt đều tỏ vẻ sững sờ. Họ ngạc nhiên và rì rầm bàn tán với nhau. Họ không hiểu vì sao mà một đơn vị, một con người với những thành tích như vậy mà vẫn không được tuyên dương anh hùng. Tôi phải giải thích cho họ nghe về quy trình xét tặng các danh hiệu vinh dự phức tạp như thế nào. Ông thân sinh ra chú em tôi, một cán bộ văn hóa về hưu tợp một hớp rượu rồi thủng thẳng: “Nhiêu khê quá nhỉ! Tôi mà có chức, có quyền thì tôi phê luôn cái rẹt. Chiến công, thành tích như thế ai mà không thấy, việc gì phải đơn từ với xét duyệt nữa”. Tôi vội can ông song trong lòng lại thầm nhủ: “Được tuyên dương hay không, không quan trọng. Điều quan trọng là trong tiềm thức những người dân bình thường thì anh và đại đội 4 của chúng tôi đã thật sự là anh hùng”.
NKN
Xin được hỏi, cháu có thể liên lạc với bác Nguyễn Khắc Nguyệt bằng cách nào? Cháu là biên kịch của Điện ảnh Quân đội, cháu đang thực hiện một phim tài liệu về những người tô thắm lá cờ Tổ quốc.
Trả lờiXóaRất mong được trao đổi với bác để tìm hiểu về người cắm cờ trên dinh Độc lập.
Email của cháu là nhuyhung@gmail.com; điện thoại 0904 98 98 95; địa chỉ cơ quan 17 Lý Nam Đế - Hà Nội. Cháu mong được chia sẻ số điện thoại của bác NKN.