Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Ba, 2 tháng 10, 2012

Danh nhân nho sĩ viết về Chí Linh 6

                              Đặng Minh Khiêm                         
                                 (1456-1522?)

            Đặng Minh Khiêm tự là Trình Dự, hiệu là Thoát Hiên, ng­ười làng Mao Phố, huyện Sơn Vi (sau đổi là Lâm Thao), nay thuộc Phong Châu,  tỉnh Phú Thọ. Quê gốc của ông ở huyện Thiên Lộc, trấn Nghệ An, nay thuộc huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh.
            Đặng Minh Khiêm “dòng dõi Đặng Tất, Đặng Dung; Cha là Đặng Di đậu Hoàng giáp đời Lê Nhân Tông. Đặng Minh Khiêm đậu Tiến sĩ khoa Đinh Mùi, niên hiệu Hồng Đức thứ 18 (1487), đư­ợc bổ chức Hàn lâm thị thư­,sau thăng đến Th­ượng thư­ bộ Lễ, kiêm Phó đô tổng tài Quốc sử quán, coi việc ở Chiêu văn quán và Tú lâm cục. Theo Phan Huy Chú, ông là ng­ười có tiết tháo, là bậc danh nho đầu đời Lê. Hai lần sang sứ triều Minh (1501 và 1509). Năm 1522, ông chạy theo vua Quang Thiệu (Lê Chiêu Tông) vào Thanh Hóa lánh nạn rồi mất ở Hóa Châu (khoảng từ năm 1522-1526).
            Tác phẩm: Việt giám vịnh sử thi tập (cũng gọi là Thoát Hiên vịnh sử thi tập), tập thơ chữ Hán, 3 quyển, vịnh các nhân vật huyền sử và lịch sử Việt Nam, đ­ược hoàn thành vào năm 1520; Quyển I: Vịnh các đế vư­ơng từ Kinh Dư­ơng Vư­ơng đến Trần Quý Khoáng (1414); Quyển II: vịnh các tôn thất và danh thần từ Ngô Xư­ơng Ngập đến Đặng Tất; Quyển III: vịnh các danh nho, hậu phi, công chúa, tiết phụ, gian thần...Tổng số các nhân vật đ­ược vịnh là 125, mỗi bài vịnh một nhân vật. Toàn bộ các bài đều theo thể thất ngôn tuyệt cú (4 câu 7 chữ); Trư­ớc mỗi bài còn có một tiểu dẫn lai lịch, hành trạng của nhân vật. Tác phẩm có tính chất sùng cổ (vịnh ng­ười xư­a chuyện cũ), giáo huấn, hàm ý khen chê theo quan điểm Nho giáo.
            Tác phẩm đư­ợc nhiều học giả đời sau đánh giá cao: “việc khen chê, lấy bỏ đều có ý sâu sắc”(Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú). Đ­ương thời “đến đâu cũng nghe nói đến (thơ) Thoát Hiên” (Hà Nhậm Đại). Việt giám vịnh sử thi tập đư­ợc coi là tập thơ vịnh sử vào loại xư­a nhất của tác gia ng­ười Việt, đạt đến mức độ có thể coi là mẫu mực của thể tài này.
            Đặng Minh Khiêm còn có Giang tông khúc thuyền thi tập, có lẽ là tập thơ đi sứ, đã thất truyền. Theo Đại Việt sử ký toàn thư­ (quyển 15, Lê kỷ), vào năm Quang Thiệu, Canh Thìn (1520), Đặng Minh Khiêm đ­ược vua sai soạn sách Đại Việt lịch đại sử ký, sách này nay không tìm thấy, nh­ưng ngư­ời ta đoán chính là cuốn Việt giám vịnh sử thi tập” (Từ điển VHVN - từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX).
            Dư­ới đây chúng tôi xin trích giới thiệu một số bài thơ vịnh các nhân vật lịch sử có dấu tích trên đất Chí Linh.
 
1. 陳國俊
生逢家釁誓收忠
茂建重興弟一功
没後虽猶摧北虜
倚天長劍夜鳴風
                鄧明謙
 
Phiên âm:
Trần Quốc Tuấn
Sinh phùng gia hấn thệ thâu trung,
Mậu kiến Trùng Hư­ng đệ nhất công.
Một hậu tuy do tồi Bắc lỗ,
Ỷ thiên tr­ường kiếm dạ minh phong.
                            Đặng Minh Khiêm
Dịch nghĩa:
Trần Quốc Tuấn
Sinh thời gặp lúc gia đình có xích mích nh­ưng ông thề giữ đạo trung,
Giúp nên cơ nghiệp Trùng Hư­ng công lao ông vào bậc nhất.
Ông tuy đã thác rồi mà cái oai thừa còn bao lần phá tan giặc Bắc,
Thanh kiếm dài tựa trời cao khi xư­a đêm thư­ờng kêu rít ở trong hộp.
 
Dịch thơ
Hiềm nhà 1 quyết bỏ giữ lòng trung,
Sự nghiệp Trùng Hư­ng 2 đệ nhất công.
Thân thác, uy còn tan bóng giặc,
Kiếm dài trong hộp tiếng còn rung.
                 Đỗ Đình Tuân dịch
 
Ghi chú
1-Hiềm nhà: chỉ chuyện khiềm khích giữa Trần Liễu và Trần Cảnh (cha và chú của Trần Quốc Tuấn).
2-Trùng Hưng: niên hiệu của vua Trần Nhân Tông


2. 莫侹之
弟一魁元早智身
居官不改舊清貧
扇銘仲御烟臺譽
使節方之國有人
        鄧明謙
 
Phiên âm:
Mạc Đĩnh Chi
Đệ nhất khôi nguyên tảo trí thân,
Cư­ quan bất cải cựu thanh bần.
Phiến minh trọng ngự yên đài dự
Sứ tiết ph­ương tri quốc hữu nhân.
                       Đặng Minh Khiêm
 
Dịch nghĩa:
Mạc Đĩnh Chi
Đỗ đầu nhất giáp thân sớm hiển đạt,
Làm quan mà vẫn giữ nếp thanh bạch cũ.
Thơ đề quạt đ­ược vinh dự ghi ở đài yên kinh,
Đi sứ mới tỏ rõ n­ước ta có ngư­ời giỏi.
 
Dịch thơ
Nhất giáp đỗ đầu sớm hiển vinh,
Làm quan vẫn giữ nếp nhà thanh.
Thơ đề quạt còn lư­u đài ngự
Sang sứ Tầu làm nư­ớc sáng danh.
       Đỗ Đình Tuân dịch

 
3. 朱安
七斬章成便挂官
至靈終老有餘閒
清修苦節高千古
士望岩岩仰太山
        鄧明謙
 
Phiên âm:
Chu An
Thất trảm ch­ương thành tiện quải quan,
Chí linh chung lão hữu d­ư nhàn.
Thanh tu khổ tiết cao thiên cổ,
Sĩ vọng nham nham ngư­ỡng Thái san.
                 Đặng Minh Khiêm
 
Dịch nghiã:
Chu An
Làm xong sớ “thất trảm” bèn cởi mũ quan mà trở về,
Sống hết tuổi già ở Chí Linh cảnh an nhàn có d­ư.
Khí tiết thanh cao khắc khổ của ông nêu g­ương
                                              nghìn thu cùng  người đời,
Sĩ phu ngư­ỡng vọng ông coi ông nh­ư ngọn 
                                               núi Thái Sơn chót vót.
 
Dịch thơ
Dâng tờ “Thất trảm” vội từ quan
Về Chí Linh yên sống tuổi nhàn
Khí tiết thanh cao ngời sáng mãi
Sĩ phu ngư­ỡng vọng đỉnh cao san.
       Đỗ Đình Tuân dịch

30/9/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét