Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Năm, 4 tháng 10, 2012

Danh nhân nho sĩ viết về Chí Linh 8


                                          Đền thờ nhà Bác học Lê Quý Đôn


                                       Lê Quý Đôn
                                (1726-1784)

          Lê Quý Đôn, chính tên là Lê Danh Ph­ương, tự Doãn Hậu, hiệu Quế Đư­ờng, ng­ười làng Diên Hà, huyện Diên Hà, trấn Sơn Nam, nay thuộc thôn Phú Hiếu, xã Độc Lập, huyện H­ưng Hà tỉnh Thái Bình.
         Lê Quý Đôn t­ư chất thông minh, lúc nhỏ đư­ợc coi là thần đồng. Năm 13 tuổi theo cha (Tiến sĩ Lê Phú Thứ) lên Thăng Long học, 17 tuổi đỗ đầu thi Hư­ơng, khoa Quý Hợi (1743), nhân dịp này đổi tên thành Lê Quý Đôn. Năm 26 tuổi đỗ đầu thi Hội, vào thi Đình đỗ Bảng nhãn khoa Nhâm Thân (1752), khoa này không lấy trạng nguyên.
       Khi đi làm quan, ông lần lư­ợt đư­ợc bổ chức Thị thư Viện hàn lâm, rồi Toản tu quốc sử; Sau biệt phái sang phủ chúa cai quản phiên binh, thăng trải qua nhiều chức:Thị giảng Viện hàn lâm, Học sĩ Bí th­ư các, Đốc đồng xứ Kinh Bắc, Tham chính xứ Hải Dư­ơng. Sau đó, ông đã xin về hư­u viết sách. Khi Trịnh Sâm lên nắm quyền (1767) có mời ông trở lại làm việc, ông đ­ược phục chức Thị thư­, đư­ợc tham gia biên soạn quốc sử kiêm T­ư nghiệp Quốc tử giám. Năm 1769 làm Tán lý quân vụ trong quân đội của Phan Phái hầu đi dẹp cuộc khởi nghĩa của Lê Duy Mật. Sau đó giữ các chức: Phó đô ngự sử, Hữu thị lang bộ Công, Bồi tụng, Hành tham tụng...Năm 1778 chuyến sang Ban võ, chức Hữu hiệu điểm quyền phủ sự(quyền Tể tư­ớng). Năm 1779 bị giáng chức rồi lại đư­ợc phục chức.
      Lê Quý Đôn là ngư­ời có trí nhớ phi thư­ờng. Tư­ơng truyền chuyến ông đi sứ sang Trung Quốc (1760-1762), khi đi ông có ghé vào ngồi trong một quán nư­ớc ở Lạng Sơn; Thấy cuốn sổ ghi nợ của bà chủ quán, do thói quen đọc sách tự nhiên ông cầm lên đọc qua. Khi về qua đây, ông thấy quán đã cháy rụi và bà chủ quán thì đang kêu gào thảm thiết vì cháy mất sổ ghi nợ, không biết căn cứ vào đâu để đòi tiền. Lê Quý Đôn đã bảo bà chủ quán lấy giấy bút cho ông và ông đã ghi lại đầy đủ nội dung cuốn sổ ghi nợ cho bà chủ quán nọ. Ông cũng là ng­ười chăm đọc và chăm ghi chép, có lẽ vì thế mà vốn hiểu biết của ông cực kỳ sâu rộng. Trư­ớc tác của ông cực kỳ phong phú và thuộc đủ mọi lĩnh vực: Đại Việt thông sử (1749), Quần th­ư khảo biện (1757), đồ sộ nhất là bộ Vân đài loại ngữ: Đây là bộ sách tổng hợp, hệ thống hóa tri thức nhiều ngành khoa học, nghệ thuật...trong đó trích dẫn tới 557 cuốn sách, có cả sách châu Âu đã dịch ra chữ Hán. Ngoài ra còn có các bộ: Phủ biên tạp lục, Kiến văn tiểu lục, Toàn Việt thi lục...
     Sáng tác văn thơ không phải là đóng góp chính của ông nh­ưng ông cũng để lại một số tập sau: Tiêu T­ương bách vịnh, Quế Đ­ường thi tập, Quế Đư­ờng văn tập (đã thất truyền) và một số phú, kinh nghĩa, thơ, diễn ca bằng chữ Nôm.
      Chúng tôi có tìm đ­ược một bài thơ của ông viết về một ngôi chùa ở đất Chí Linh. Có thể là trong thời kỳ nhận chức Tham chính xứ Hải D­ương ông đã có dịp du lãm ngôi chùa này mà viết chăng?

Phiên âm
                   Hư­ơng Hải tự1
            Kỷ niên hiên khoát viễn trần ai,
            Thu thủy xuân sơn nhất giám khai.
            Giang nguyệt bất tùy lư­u thủy khứ,
            Thiên phong thư­ờng tống hải đào lai.
            Tiên kỳ hoàn khách thôi thi tứ,
            Ngọc ảnh l­ưu nhân động tráng hoài.
            Tận nhật đăng lâm vô hạn hứng,
            Tịch d­ương chỉ xích cận Bồng lai2
 
Dịch nghĩa
                   Chùa H­ương Hải
              Ngôi chùa cao rộng sáng sủa đã bao nhiêu năm
                                                               xa cách cõi trần,
               Nư­ớc mùa thu,núi mùa xuân,một bầu g­ương 
                                                                     sáng mở ra.
               Trăng lòng sông không theo dòng nư­ớc chảy đi,
               Gió ngoài trời th­ường đư­a sóng bể tràn lên.
               Cờ tiên gọi khách d­ường nh­ư giục tứ thơ,
               Bóng ngọc quyến ngư­ời muốn gợi tấm lòng hùng mạnh.
               Suốt ngày ngoạn cảnh niềm hứng thú không kể xiết,
               Tà d­ương gác bóng nh­ư gần cung điện 
                                                           Bồng Lai trong gang tấc.
 
Dịch thơ          
Bao năm cao rộng cách xa đời
Nước biếc non xanh một tấm soi
Gió bể đưa vào con sóng vỗ
Lòng sông nước chảy sáng trăng soi
Cờ tiên gọi khách lòng thêm hứng
Bóng ngọc quyến người gợi thú vui
Ngoạn cảnh suốt ngày khôn xiết kể
Tà dương gác bóng ngỡ Bồng Lai
                     Đỗ Đình Tuân dịch
 
Ghi chú
               1-Hương hải tự : tức chùa Hương hải, đặt tại thôn Tiền, xã Phụ Vệ, huyện Chí Linh(cổ), naylà Tiền Trung Nam Sách.
               2-Bồng Lai: tên một hòn núi trong ba hòn núi của tiên ở vùng biển Bột Hải (Trung Quốc). Ở đây chỉ cảnh đẹp như cảnh tiên.


                   CÁC VỊ THIỀN DẬT Ở CHÍ LINH

                                    1-Pháp Loa

            Pháp Loa tôn giả, sinh nhằm năm Thiệu Phong thứ sáu triều nhà Trần, tại thôn Đồng Hòa, hương Cửu La, thuộc Nam Sách giang (nay là thôn Tiền, xã Phụ Vệ, phủ Nam Sách, tên cũ là Đồng Hòa, sau chia làm hai, một là thôn Đồng, một là thôn Tiền. Thôn Tiền là chỗ chôn rau cắt rốn của tôn giả, thổ trạch ấy bây giờ vẫn còn). Bà mẹ đêm nằm mộng thấy một người kỳ dị trao cho thanh thần kiếm, mừng rỡ cất vào trong bụng, lúc tỉnh dậy thì có mang. Khi sinh, mùi thơm lạ đầy nhà, lâu mới tan hết. Pháp Loa lúc còn bé thông minh rất sớm, không nói lời thô tục, không ăn mùi hôi tanh, năm 28 tuổi, Nhân Tông ra chơi Nam Sách giang, trông thấy, lấy làm kỳ dị và nói: “Thằng cháu này có con mắt đạo học, sau tất làm tiêu biểu cho pháp môn”. Vả lại mừng về tương lai, nên đặt tên cho là Hỉ Lai, sau thụ giới ở lều Kỳ Lân, mới đổi tên là Pháp Loa. Năm Hưng Long thứ 161, phong cho làm Trúc Lâm đệ nhị tổ sư. Lúc Nhân Tông tịch ở am Ngọa Vân, nhà sư phụng xá lị2 vào yên trí ở đại nội 3 (việc này có chép rõ trong Quốc sử). Sau Nhân Tông mất, nhà sư tu hành ở núi Yên Tử. Sư Huyền Quang cũng theo nhà sư học đạo, không mấy lúc rời bên cạnh. Anh Tông cho hiệu là Phổ Trí tôn giả, sau đó mỗi khi viết thư gửi cho nhà sư, Anh tông đều xưng là đệ tử. Nhà sư phụng chiếu chỉ cầu mưa thường được linh ứng, có dựng viện Quỳnh Lâm và các am Hồ Thiên, Chân Lạc, lại mở cảnh núi Côn Sơn và Thanh Mai, năm 44 tuổi thì tịch, có bài kệ rằng:
                   Vạn duyên tài đoạn nhất thân nhàn,
                   Tứ thập niên dư biến huyễn gian.
                   Trân trọng chư nhân hưu tá vấn,
                   Na biên phong nguyệt cánh khoa khoan.
            Tạm dịch:
                   Trần duyên cắt đứt được nhàn thân,
                   Bốn chục năm hơn luống chuyển vần.
                   Nhắn nhủ mọi người đừng viếng hỏi,
                   Bên kia trăng gió rộng vô ngần.
            
        Đệ tử dựng tháp ở núi Thanh Mai (Trên đây theo bia niên phả trong tập sách của thị giả là Trung Minh mà thuật lại một cách sơ lược. Tương truyền tập này Pháp chân tử Huyền Quang đã khảo đính. Nay ở chùa Hương Hải còn phảng phất dấu vết có thể nhận được). Những nơi đã được nhà sư manh tích trượng vân du, đều là danh lam cả. Còn chùa Hương Hải ở bản xã, từ trước vẫn tỏ linh ứng, học trò đi thi, phần nhiều đến cầu báo mộng, không bao giờ là không ứng nghiệm, đến nay vẫn thế.
                                                          (Kiến văn tiểu lục)

                              2-Huyền Quang

            Sư Huyền Quang, người thời nhà Trần, học rộng, thơ hay, trong Việt âm thi tập có chép một bài thất ngôn tuyệt cú của thiền sư, thì tựa hồ không phải khẩu khiếu nhà chùa, còn bài ngũ ngôn và bài thất ngôn thì lời thơ cũng phăng phẳng. Trong Trích diễm thi tập có chép một bài ngũ ngôn tuyệt cú và 21 bài thất ngôn tuyệt cú, thì thơ văn tinh tế, rất có khí tượng cao siêu. Trong sách ấy chua rằng: “Thiền sư người xã Vạn Tải huyện Vũ Ninh (sau đổi là huyện Gia Định, nay đổi là huyện Gia Bình), lúc lên chín tuổi đã biết làm thơ văn, học tập về nghề nghiệp thi cử, 19 tuổi vào chùa học đạo, tức là đệ tam tổ trong môn phái Trúc Lâm, có tập thơ Ngọc tiên và các tập thơ khác lưu hành ở đời”. Cứ như thế thì tục truyền là thiền sư đỗ trạng nguyên, sau từ quan về làm thày chùa, là không đúng. Tập Trích diễm  do Hoàng Đức Lương biên soạn vào khoảng năm Hồng Đức. Lúc ấy gần với thời đại nhà Trần, thì lời nói của Hoàng Đức Lương có lẽ không sai,….

                             MẤY LINH TÍCH Ở CHÍ LINH

            1-Đền thờ Nhân Huệ vương Trần Khánh Dư1, ở xã Linh Giang huyện Chí Linh2, rất anh linh. Sử ký chép, Nhân Huệ vương thường bị vua quở trách, phải về ở nhà. Khi Trần Thánh Tông chạy tránh giặc Nguyên ra Chí Linh được gặp ông, lại cất nhắc giữ công việc trọng đại. Có lẽ chỗ ở của ông, hoặc ở ngay nơi đền thờ, hoặc ở gần đấy, đều không thể khảo cứu được. Tục truyền, triều đại trước, thường khảo hạch học trò ở bên cạnh đền. Một anh học trò làm bài, đến đoạn chê trách những người làm bầy tôi, anh học trò khác hỏi: “Nên chê trách ai?”, anh học trò ấy chỉ vào đền thờ Nhân Huệ vương để bảo ngầm cho anh kia biết. Bởi vì kết luận của anh học trò ấy có câu rằng “Trần Khánh Dư chi tham bỉ dã” (Trần Khánh Dư là người tham ô bỉ ổi). Đêm hôm ấy anh học trò nằm mộng thấy Nhân Huệ vương bảo rằng: “Ta có phụ bạc gì nhà ngươi mà nhà ngươi đem ta ra chỉ trích”. Khi tỉnh dậy, anh học trò lấy làm kinh dị. Ít lâu nay, địa phương bị loạn, chùa miếu phần nhiều bị giặc cướp triệt hạ đem bán, phàm chùa miếu gần sông cái, không còn một ngôi nào. Đền thờ Nhân Huệ vương ở bái sông, thường có kẻ gian đến triệt hạ, khi trèo lên đền, liền bị hôn mê lảo đảo, không sao đứng vững, người khác lại trèo lên, cũng bị như thế, sau họ dùng súng để bắn, hai lần bắn súng đều không nổ, bèn không dám xâm phạm đến nữa. Đền ấy nay vẫn nguy nga.

            2-Đền Quốc Phụ  ở xã Kiệt Đặc huyện Chí Linh, là thổ trạch cũ của Trần Quốc Điền3 , quốc phụ thượng tể thời nhà Trần, thổ trạch này liền với sông cái. Tục truyền ông có thuật lạ, cứ ba ngày một lần vào triều, buổi tối còn ở nhà, buổi sáng hôm sau đã ở kinh sư. Bởi lúc ấy đường thủy sông Thiên Đức4 thương lưu thông, ông dùng thuyền nhỏ trèo mau, nên đi một đêm có thể đến kinh được. Ông bị người ta dèm pha mà phải chết5, sau mới dựng đền thờ ngay chỗ thổ trạch của ông, đền vẫn có tiếng linh thiêng. Trần Minh Tông thường đến chơi, bị ong vàng đốt cho vào má bên trái mà chết. Đến nay cầu mưa đảo nắng đều ứng nghiệm cả. Tục truyền một lần gặp đại hạn, người trong hương Kiệt Đặc rủ người xã Quảng Tân ở tổng khác góp chung tiền gạo làm lễ cầu đảo. Những người ở xã Quảng Tân lấy cớ là cách sông lớn không bằng lòng góp. Sau khi cầu đảo được mưa, thì chỉ mưa ở địa phận bên bờ bắc sông lớn, còn một dải địa phận về bờ bên nam sông vẫn nắng. Người ta đều lấy làm kinh dị.

            3- Đền thờ Cao Sơn Đại vương ở xã Lang giản huyện Chí Linh6. Tục truyền rằng, đại vương tinh thông nghề làm thuốc, rất sở trường về môn chữa bệnh sởi đậu, thường hiển hiện làm thày thuốc đi chữa bệnh. Trước kia có người ở Sơn Tây, con bị lên đậu lên sởi, khi người này đi đường, gặp một ông già tự nói có thể chữa khỏi bệnh, người ấy đón về, ông già cho thuốc, quả nhiên kiến hiệu, bèn hỏi chỗ ở và họ tên, ông già nói: “Tên tôi là Cao Sơn, nhà ở xứ Đầu Hồ, xã Lang Giản, huyện Chí Linh”. Người ấy theo lời, đến tạ ơn, khi đến nơi thì chỉ thấy trơ trọi một ngôi đền thờ thần, cây cối um tùm, mới biết là hiển thánh, liền chiêm ngưỡng lạy tạ rồi trở về. Thần nổi tiếng là thần y, mỗi khi ai có bệnh, đem lễ chay (đền này thờ cúng bằng lễ chay) và một hồ nước trong đến dưới đền, bày tỏ chứng bệnh, xin ban ơn cho thuốc thần; sau khi cầu đảo xong, lại dùng nước ấy cho người bệnh uống, thường nhiều người được khỏi bệnh. Kẻ xa người gần nào xin thuốc, nào bán con, theo tuần tiết cầu đảo, lễ bái không sao kể xiết, đến nay vẫn còn.

                                                                   (Kiến văn tiểu lục)

Ghi chú
               1-Trần Khánh Dư, tôn thất nhà Trần, con đẻ của thượng tướng Trần Phó Duyệt, con nuôi của vua Trần Thánh Tông, có nhà riêng ở châu Chí Linh, thuộc vùng đất các xã Nhân Huệ và Cổ Thành ngày nay.
               2-Xã Linh giang huyện Chí Linh,sau đổi là xã Linh Giàng( tránh Húy Trịnh Giang), tục gọi là làng Gốm, nay xã Cổ Thành Huyện Chí Linh.
               3-Trần Quốc Điền: Đại Việt sử ký toàn thư và nhiều tài liệu khác chép là Trần Quốc Chẩn.
               4-Sông Thiên Đức: tục gọi là sông Đuống, con sông nối sông Hồng với các sông Kinh Thày, sông Lục Đầu và sông Thái Bình.
               5-Trần Quốc Điền(theo ghi chép của Lê Quý Đôn), là tôn thất nhà Trần, có nhiều công lao trong đánh dẹp Chiêm Thành, được Vua Trần Anh Tông rất tin dùng, là nhạc phụ của vua Trần Minh Tông, bị Văn Hiến Hầu(không rõ tên) vu cho làm phản,Trần Minh Tông hồ đồ tin theo,bắt giam trong chùa Tư Phúc, không cho ăn uống gì đến chết, đến đời Trần Dụ Tông biết bị oan lại khôi phục cho chức tước.
               6- Xã Lang Giản huyện Chí Linh: nay là thôn Lương gián, xã Quốc Tuấn huyện Nam Sách tỉnh hải Dương.

                                   Nguyễn Trãi

            Nguyễn Trãi là cháu ngoại quan Chương Túc hầu1 nhà Trần và là con ông Nguyễn Phi Khanh, đỗ tiến sĩ triều nhà Hồ 2, đã sẵn thanh danh vị vọng, khi vào yết kiến (Bình Định vương) ở Lỗi Giang3, liền được tri ngộ, viết thư gửi tướng súy nhà Minh, thảo hịch truyền đi các lộ, đứng vào bậc nhất trong một đời, chức vị là thượng thư, cấp bậc là công thần. Cứ xem ông giúp chính trị hai triều vua4, hết lòng trung thành, tuy dâng lời khuyên răn, thường bị đè nén, mà không từng chịu khuất. Đối xử giữa khoảng họ Giáng, họ Quán5 điều lễ tốn nhiều công phu; nhưng vì tối về  nghĩa “chỉ, túc”6  thành ra cuối cùng không giữ được tốt lành, thật đáng thương xót! Nguyễn Vĩ, một người cháu xa đời của Nguyễn Trãi, xuất trình chế văn truy tặng cho ông tước Tế Văn hầu7, trong ấy có câu rằng: “Long hổ phong vân chi hội, do tưởng tiền duyên; văn chương sự nghiệp chi truyền, vĩnh thùy hậu thế” (Gặp gỡ long hổ phong vân, còn ghi duyên cũ, truyền tụng văn chương sự nghiệp, để mãi đời sau). Câu ấy đủ tỏ ra rằng người có công lao đứng đầu về việc giúp rập vua, thì ngàn năm không thể mai một được.
                                                                   (Kiến văn tiểu lục)
Ghi chú
               1-Chương Túc hầu: tức Trần Nguyên Đán, tôn thất nhà Trần.
               2-Đỗ tiến sĩ đời nhà Hồ: Năm Canh Thìn(1400) niên hiệu Thánh Nguyên thứ nhất đời Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi thi đỗ Thái học sinh(tức tiến sĩ).
               3-Lỗi Giang: một chi lưu của sông Mã, ở địa phận huyện Vĩnh Lộc tỉnh Thanh Hóa.
               4-Hai triều vua: tức triều Lê Thái Tổ và triều Lê Thái Tông.
               5-Giáng, Quán: tức Chu Bột và Quán Anh, bầy tôi của Hán Cao Tổ, hai người này đều không có học vấn,lại hay chèn ép bạn đồng liêu.Ở đây có ý ám chỉ bọn Lê Sát, Lê Ngân… bầy tôi nhà Lê lúc bấy giờ.
               6-Chỉ, túc: do câu “Tri túc bất nhục, tri chỉ bất đãi” của Lão Tử, có nghĩa là “Biết đủ thì không bị nhục, biết dưng thì không gặp nguy hiểm”.
               7-Tước Tế Văn hầu: do Tương Dực đế truy tặng. Chế văn đề ngày 27 tháng 6 năm Hồng Thuận thứ 4 (1512), sau khi Nguyễn Trãi bị nạn 70 năm.
4/10/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét