Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2014

ĐỌC “BỐN MÙA” THƠ TRẦN NHUẬN MINH NXB VĂN HỌC HÀ NỘI 2011

 MIỀN DÂN GIAN MÂY TRẮNG.

Cũng có thể trong thời gian chết lâm sàng, Trần Nhuận Minh tình cờ lạc vào miền dân gian khác lạ, những gì ở đây đều không giống những gì ở cõi người dù ông đã phải “bò toài” trong hơn 60 năm qua. Để có thể lý giải những gì mà ông đã gặp, ông đã phải đặt tên cho miền dân gian khác lạ đó là “Miền dân gian mây trắng”. Ông vốn là người cẩn trọng trong cuộc sống và trong đối nhân xử thế với cõi người. Vì cõi người này vẫn còn lắm kẻ gian manh xảo trá, ghét ghen và đố kỵ như ông đã gặp trong “Bản xô nát hoang dã” và “45 khúc đàn bầu của kẻ vô danh”. Ông đặt tên cho thiên phóng sự của mình như thế là một điều rất cần thiết. Sau tên mỗi bài thơ, rất nhiều câu thơ và rất nhiều câu kết ông còn để dấu chấm lửng (…) Hình như ông muốn gửi gắm tới chúng ta tất cả đều dang dở, chưa kết thúc, chưa tận cùng chấm hết. Muốn mở ra cho ta một trường liên tưởng không dứt. Cũng như các tác phẩm trên ở đây tôi cũng lần lượt dọc theo hành trình của “Miền dân gian mây trắng”.
HÒN GÀ CHỌI…”

Cứ từ đó mà suy ra và biện minh cho tất cả những gì đang diễn ra ở trong “Miền dân gian mây trắng” đều là điều có thể.
Hòn Gà Chọi ! Đúng là đôi gà chọi.
Tàu rẽ trái phía bên kia
Hòn Gà Chọi đã thành hòn Cá Chép đang bơi
Tất cả đều đổi thay
Dù vững bền như đá
Thay đổi góc nhìn, chỉ cần thế mà thôi …”
Vững bền như đá mà còn đổi thay huống gì cõi người. Chỉ cần một ẩn dụ ấy thôi, Trần Nhuận Minh đã xua tan tất cả mọi ngờ vực và đố kỵ về tác phẩm "Miền dân gian mây trắng". Nhưng hiểu như vậy theo tôi vẫn là chưa hết những thông điệp mà bài thơ còn ẩn chứa. Đừng đặt niềm tin tuyệt đối vào một điều gì. Tất cả đều có thể đổi thay khi ta đổi góc nhìn, thay đổi nhận thức. Một thời ta đã như Nhà thơ Việt Phương đã viết: "Đồng hồ Liên Xô tốt hơn đồng hồ Thụy Sỹ. Trăng Bắc Kinh tròn hơn trăng Mỹ". Một thời tất cả mọi thông tin về tư bản đều bị bịt kín, bị bóp méo. Một thời chủ nghĩa giáo điều đã tàn phá đất nước này tan hoang kiệt quệ. Giờ cũng đất nước ấy, con người ấy ta đã biết thay đổi góc nhìn thì nền kinh tế (vâng chỉ kinh tế thôi) đã trở nên phồn thịnh. Vâng:
"Thay đổi góc nhìn, chỉ cần thế mà thôi"
ANH ĐÂY CÔNG TỬ”

Đây là bài thơ rất đậm chất hài hước dân gian, là Công tử mà không một xu dính túi đến nỗi đi đón người yêu còn phải:
Chờ anh, anh đón em về
Anh còn mượn áo, với thuê cái quần”
Và chàng công tử này cũng giàu lắm:
Vàng, đô ư ?
Có ! Lúc cần mới tiêu
Biết khi nào vị công tử cần tiêu và tiêu vào việc gì ? Vì thế cái “Vàng, đô” ở đây chỉ là cái hão huyền, khoác lác với người yêu:
Mai anh bán nắng bến Triều
Bán mưa chợ Cháy nộp cheo cho làng”
Và:
Xe công nông rất rộn ràng
Rước dâu mời cả họ hàng cùng đi”
Đúng là chuyện cười ra nước mắt !
VẪN CÒN ĐÂY…”

Đã rất nhiều Nhà thơ viết về chuyện Tấm Cám, khen chê, lý giải đủ điều về tội ác của Tấm. Có Nhà thơ nhạc sĩ còn lấy hình ảnh Tấm là biểu tượng cho những cô gái trung hậu đảm đang ở nông thôn Việt Nam. Cũng rất nhiều người lý giải và bất bình với tội ác man rợ của Tấm. Một truyện cổ tích mang tính ác và tính bạo lực như vậy có nên đưa vào sách giáo khoa cho trẻ con học hay không ? Có lẽ ngành giáo dục cũng cần xem xét lại. Cũng có người biện minh cho tội ác của Tấm là do vua chẳng ra vua, chỉ quẩn quanh với quả thị, với gốc xoan đào, với con chim vàng anh mà quên đi chức phận làm vua là phải biết ban điều thiện và trừng trị tội ác nên cái ác mới sinh ra. Cũng có Nhà thơ trong đó có Trần Nhuận Minh thì coi đây là quy luật tất yếu khi địa vị xã hội của con người thay đổi thì nhân cách cũng thay đổi. Ở địa vị càng cao thì sự gian manh, xảo trá độc ác càng cao, càng man rợ:
Man rợ và thấp hèn
Cô Tấm vợ vua là một người như thế
Ta yêu suốt tuổi thơ là cớ làm sao ?...”
Một câu hỏi đang xoáy vào tim óc của ngành giáo dục. Cô Tấm ấy không hiểu vì sao cứ tồn tại “Như vẫn còn đây trong mùa trảy hội” thì thật là man rợ, thật đại loạn.
TA QUA BẾN LÚ…”

Chỉ cần mấy câu thơ mà Trần Nhuận Minh đã khắc họa được sự hủy hoại nhân cách, sự hỗn mang của “Miền dân gian mây trắng”:
Ta rằng: Thiên hạ khác rồi
Chẳng ai đọc sách nghe lời vua ban
Vua rằng: Tớ bảo các quan
Ta rằng: Quan bận săn toàn đô la”
Một xã hội chỉ lấy đồng tiền làm mục tiêu của cuộc sống !
EM ĐI BIÊN GIỚI…”

Chuyện mẹ chồng nàng dâu trong dân gian được Trần Nhuận Minh khai thác để tố cáo cái ngu dốt ở cõi người:
"Em đi biên giới buôn cam
Mẹ chồng lại bảo đi làm ba toa"
Chuyện tưởng chỉ có thế mà mẹ chồng nàng dâu lại đưa nhau ra tòa và ông quan tòa lại quá ngu dốt:
Quan tòa bắt giải trình toa hàng gì ?...
Chữ "toa" lò mổ mà ông quan tòa lại hiểu là "toa hàng", thì thật ngu dốt đi đến tận cùng. Không thể tin cậy vào quan tòa, mẹ chồng nàng dâu lại lôi nhau:
"Về làng hỏi cụ trưởng chi
Cụ trưởng chi bảo ba thì hơn hai"
Và chữ "ba" bây giờ lại được cụ trưởng chi hiểu là số lượng. Trong cái dốt nát ngu tối nàng dâu chỉ biết ngửa mặt kêu trời:
"Chao ôi ! Nước rộng, non dài
Nỗi oan, em biết cậy ai bây giờ"
Nước thì rộng, non thì dài, ở đâu cũng chỉ một lũ quan tòa, trưởng chi dốt nát ấy mà thôi.
TỪ XỬA TỪ XƯA”

Ngày xưa thời Khổng Tử đã biết lấy dân làm gốc, tất cả cho dân và vì dân và ngày nay ta cũng đang nói chính như thế, không chỉ một lần mà ngàn lần. Nhưng người dân ở đây cứ như cái thớt, ai muốn chặt chém băm vằm thế nào cũng được. Bao chuyện trái ngang dân giơ đầu ra chịu. Hỏi ai ai cũng lắc đầu im lặng:
Mọi đặc quyền đều xúc phạm Nhân Dân
Và bất công như quả bóng lăn tròn
Từ chân người này sang chân người khác
Im lặng là vàng ư?
- IM LẶNG LÀ TỘI ÁC…”
ÔNG GIÀ NẰM TRONG QUAN TÀI…”

Chuyện đời thật quá éo le đến nỗi người chết nằm trong quan tài mà không thể chịu nổi. Chết rồi còn phải vùng dậy mà kêu mà van. Chuyện ma chay cưới xin, mừng thọ, khao lão mẹ cha thời hiện đại của các ông quan đầu huyện, đầu tỉnh, đầu ngành đã gieo rắc nỗi khủng khiếp kinh hoàng cho các cán bộ công nhân nghèo khổ. Sau mỗi đám tang, đám hỷ như thế các ông quan thu về tiền tỷ. Nhưng chính đây cũng là dịp các quan dưới chức dưới quyền tỏ lòng trung thành mẫn cán làm kiếp chó dê trâu ngựa. Ông già nằm trong quan tài:
Đời ông theo gót Cụ Hồ
Muối vừng cơm nắm… cầm cờ tiên phong
Một trai duy nhất, con ông
Làm quan đầu tỉnh cũng không kém đời…”
Cũng chính nhờ chức quan đầu tỉnh mà kéo về đây một lũ lốc nhốc áo xô, khăn mấn là con trai, con dâu, con gái, con rể hờ. Ông già đã vùng dậy:
Oan tôi ! Xin chớ nghi ngờ
Tôi không con bịch con bồ ở đâu
Bực mình… muốn nói một câu
Mà không cất nổi cái đầu được lên…
Con ơi
Ông khẽ khàng rên...
Nỗi đau thành cỏ mọc trên nấm mồ...”
Nỗi đau đời, nỗi đau của ông già một thời theo Cụ Hồ giờ còn mãi, còn mãi vì cỏ xanh tượng trưng cho sự bất diệt.
NGÀY NÀY THÁNG NỌ…”

Chuyện thật mà như đùa, tất cả đều xảo trá và gian manh đến như:
Ngày này, tháng nọ, năm kia
Nàng trong khách sạn cặp kè một anh
Anh này đang tiến bộ nhanh
Vừa Giám đốc Sở vừa Thành ủy viên
Hai người đứng ở hàng hiên
Hôn nhau một cái, rồi lên trên lầu…”
Chuyện nhân tình nhân ngãi, bồ bịch tùm lum như thế giữa ban ngày ban mặt. Chuyện cứ như ở đâu đó trong “Miền dân gian mây trắng”. Đến như thế này là cùng đường rồi. Chuyện hôn nhau một cái bên hàng hiên giữa một ông Thành ủy viên và một cô gái buôn Tần bán Sở. Chuyện dẫn nhau lên lầu trong khách sạn đã là chuyện thường tình của đời nay. Một Thành ủy viên mà như thế đó ! Và một người nhân cách như “nàng” mà giờ đây:
Mừng nàng làm cán bộ rồi
Có hai con gửi hai nơi xa nhà"
Với một câu thơ chắc như đinh đóng cột:
"Một con thì giống Chánh tòa"
Ông Chánh tòa mà cũng bồ bịch hủ hóa như thế ư ? Và một câu:
"Một con … như là … Cục trưởng Hải quan”
Sự ỡm ờ ở đây nó chở được sự châm biến, mỉa mai sâu sắc, ta hiểu thế nào đây câu thơ này: Như là ... con, hay cũng chính là cục trưởng Hải quan. Một cục trưởng đạo mạo danh giá như thế qua thơ Trần Nhuận Minh lại trở thành một đứa con của một gái bán hoa. Mà đã là con thì có thể rầy la, chửi mắng và sai khiến. Đúng là một lũ nô lệ của tình dục. Cái giá, cái nhân phẩm của ông Chánh tòa, của ông Cục trưởng Hải quan đã bị nhấn chìm xuống tận bùn đen chỉ bằng hai câu thơ tài hoa và dũng cảm đến độ thượng thừa. Phải chăng chuyện như thế ở “Miền dân gian mây trắng” chứ không phải ở cõi người.
Miền dân gian mây trắng” chỉ có 43 bài thơ mà đã vạn ngàn trái ngang dâu bể. Vẫn còn rất nhiều điều mà Trần Nhuận Minh muốn gửi gắm nhưng đã đến lúc tôi dừng lại. Tôi đã hoàn toàn kiệt sức khi phải cùng ông lãng du trong “Miền dân gian mây trắng” ấy. Ông xê dịch phần hồn trong đó với tốc độ của ánh sáng 32 vạn km/giây. Còn tôi xê dịch cái thân xác nặng nề già cỗi này sao cho kịp cái mênh mông trời bể của ông. Chỉ mong rằng những gì mà Trần Nhuận Minh đã viết, đã phơi trải nó chỉ ở trên, ở trong “Miền dân gian mây trắng” mà đừng giáng xuống cõi đời này nữa vì cõi đời này cũng đã lắm nguồn cơn dâu bể trái ngang lọc lừa lắm rồi.
MỘT QUYẾT ĐỊNH DŨNG CẢM NHƯNG BẤT CÔNG”

Khi đọc lời thưa đầu sách của “Bốn mùa” tôi thực sự trăn trở vì Trần Nhuận Minh đã quyết định loại bỏ những sáng tác của ông từ 1960 đến 1985. Ông chỉ giữ lại 29 bài và để nó vào phần phụ lục: “Gửi lại dọc đường”. Tôi coi đó là một quyết định vừa dũng cảm nhưng cũng vừa bất công.
Dũng cảm vì dám từ bỏ một quá khứ, một phần tư thế kỉ văn học mà không phải ai cũng có thể có được. Còn bất công vì dù sao đó cũng là những đứa con tinh thần mà ông đã mang nặng đẻ đau trong 25 năm có lẻ. Và bây giờ, bình tĩnh ngồi đọc lại, nó vẫn có nhiều cái được của một thời văn chương, như nhiều tác giả khác.
Một điều chắc chắn rằng những tập thơ của một thời ấy sống được, tồn tại được là cả một sự cạnh tranh khốc liệt lắm. Thời ấy để ra đời một tập thơ đâu có dễ dàng gì, ba bốn lần kiểm duyệt, tiền nong của Nhà nước bỏ ra thì trước hết thơ phải phục vụ Nhà nước. Có nghĩa là tính tư tưởng của nó phải đạt được chuẩn mực của xã hội đương đại và người đọc đương đại. Số sách thời đó bao giờ cũng xuất bản với số lượng bản in rất lớn. Thơ thời đó có mặt khắp các hiệu sách nhân dân ở bất kỳ nơi nào. Nghĩa là đối tượng đọc sách đa số là nhân dân. Còn bây giờ ai có tiền cũng có thể in thơ và đó có phải là thơ không thì còn phải bàn nhiều lắm. Tự bỏ tiền in thơ thì số lượng phát hành nhỏ nhoi đến thảm hại.
Nhưng càng đọc kỹ thơ Trần Nhuận Minh tôi càng đồng thuận với quyết định của ông. Vì ông đã từng chua chát:
Tôi già rồi
Chẳng biết giấu vào đâu
Nỗi ngu dại học từ thời tốt đẹp”
Đó cũng là một lý do biện minh cho quyết định của mình. Như đầu bài tôi đã viết Trần Nhuận Minh luôn muốn làm mới mình, muốn vượt lên chính mình. Ông biết đoạn tuyệt với những gì của quá khứ, thơ ngây, ấu trĩ về nhận thức của mình là một điều dũng cảm. Vậy mà sao tôi vẫn thấy nao lòng tiếc nuối. Biết đâu khi được đọc toàn bộ tác phẩm của ông, người đọc lại càng cảm thông và trân trọng với di sản văn học của ông hơn. Có thể bây giờ quyền quyết định là của ông về số phận tác phẩm của mình, còn mai sau… hậu thế sẽ giữ lại những gì mà ông đã đoạn tuyệt. Tôi tin điều đó sẽ trở thành hiện thực và hậu thế sẽ hiểu hơn về con người và hành trình văn chương của Trần Nhuận Minh.
Giờ tôi xin nói đôi điều về hai bài thơ của ông đó là “Thành phố bên này sông” và nhất là “Một trăm bước cuối cùng” trong phần phụ lục “Gửi lại dọc đường”.
Với hai bài thơ này dù Trần Nhuận Minh đã viết trong lời tác giả về “Một trăm bước cuối cùng”, “Và cả hai bên đều có rất nhiều nỗ lực tốt đẹp cho tương lai”. Nỗ lực ấy là gì (?) thì hậu thế vẫn cần biết đến cái mốc đau thương ấy. Dù không có tài liệu nào công bố về thiệt hại và sự đau thương của cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc. Nhưng chỉ bằng hai bài thơ này của Trần Nhuận Minh hậu thế sẽ hiểu và tự mình định đoạt lấy vận mệnh của đất nước mình. Vâng ! Niềm tin đừng bao giờ tuyệt đối hóa mà hãy có giới hạn nhất là đối với ngoại bang về mọi mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa.
Tôi chỉ nói về hình tượng người phụ nữ trong “Một trăm bước cuối cùng”. Trần Nhuận Minh đã cho biết bài thơ là cảm xúc được tạo dựng lên từ một nguyên mẫu có thực trong đời, từ một bài báo đã được in trên Báo Nhân dân (?).
Biết bao Nhà thơ, Nhà văn đã sáng tạo ra hình tượng người phụ nữ Việt Nam anh dũng và bất khuất. Người mẹ vẫn đào hầm, chị Sứ trong “Hòn đất”, chị Út Tịch trong “Người mẹ cầm súng” thì đời vẫn tin hình tượng người phụ nữ của Trần Nhuận Minh sáng tạo ra trong “Một trăm bước cuối cùng” là hình tượng vĩ đại nhất, bi tráng nhất mà văn học Việt Nam đương đại có thể sáng tạo ra. Chị đã lấy chính cái chết của mình, của đứa con còn quẫy đạp trong bụng mình để tiêu diệt kẻ thù. Chị Út Tịch trên tay còn có khẩu súng, bên cạnh còn có đồng đội. Còn người phụ nữ của Trần Nhuận Minh biết rằng mình chỉ còn một trăm bước nữa là mình và cả đứa con sẽ bị hủy diệt. Nhưng chị vẫn đếm từng bước, mỗi bước đi là gần tới cái chết. Thế mà chị vẫn đi. Đứa con trong bụng chị cũng lên tiếng đòi sự tồn tại, nhưng rồi nó đã biết nằm im không quẫy đạp để thức tỉnh bản năng làm mẹ sẽ làm nhụt ý chí của chị. Quân xâm lược đã phải đền tội. Cuối cùng là hình tượng của người phụ nữ và đứa con bay lên cõi cao xanh vô tận. Chị đã về với cõi vĩnh hằng trong cái rên xiết, ai oán của kẻ thù.
Dù đó là hình tượng do Trần Nhuận Minh sáng tạo ra nhưng tất cả chúng ta đều nhìn rõ xương cốt và hồn thiêng dân tộc kết tụ vào người phụ nữ anh hùng. Tất cả dân tộc này sẽ cúi đầu trước hình hài và hồn thiêng của chị.
Bài thơ mãi mãi tồn tại, tồn tại vững bền là cái mốc, là lời cảnh báo cho mọi thế lực thù địch tàn bạo nhất. Hình tượng ấy đã và còn khắc sâu mãi trong tâm khảm người dân Việt Nam, nhắc nhở chúng ta sống phải nhân hậu nhưng không bao giờ được mất cảnh giác.
Trong lời “Tự thuật” Trần Nhuận Minh đã phơi bày gan ruột, phơi bày cuộc đời ông ra giữa cõi người mong nhận được một lời sẻ chia, một nỗi niềm đồng vọng:
Viết được một câu thơ trung thực với Nhân Dân
Tôi đã đi qua bốn mươi năm bão táp
Cả xã hội diệt trừ cái ác
Cái ác vẫn ngang nhiên cười nói giữa đời”
Cổ nhân đã dạy: “Trăm dơ lấy nước làm sạch” (nước ở đây là vật chất có công thức hóa học là H2O). Mọi dơ dáy bẩn thỉu vật chất đều có thể lấy nước tẩy rửa, làm sạch. Và: “Nước dơ lấy gươm làm sạch” (Nước là đất nước, là Tổ quốc). Đất nước này đang bị bọn biến chất, hủ hóa, độc ác, tham nhũng làm dơ đục. Liệu rằng câu thơ rắn hơn cả sắt thép, sắc hơn cả gươm đao, vững bền và bất tử của Trần Nhuận Minh và bao nhiêu Nhà thơ tâm huyết chính trực khác có thể diệt trừ được cái ác, có thể làm cho đất nước này đỡ dơ đục hơn không ? Đó có lẽ vẫn chỉ là khát vọng. Ta đã từng nghe Đấng Âm U của Trần Nhuận Minh tuyên bố một chủ thuyết xanh rờn “Bất công còn hơn hỗn loạn”. Chủ thuyết đó đã và đang trở thành quốc sách thì tất cả vẫn chỉ là ước mơ và khát vọng. Nhưng nếu ta sống mà không có ước mơ và khát vọng ta sẽ sống như thế nào và sẽ sống bằng gì ? Ta phải tin vào điều thiện rồi sẽ có một ngày xã hội này sẽ trở nên tự do, dân chủ, công bằng và văn minh. Ta tin rồi sẽ có một ngày khi chân ta dẫm trên lưng con rắn độc, con rắn độc sẽ biến thành sợi dây. Và ngày ấy, với:
     “Tư duy và tốc độ
     Nhìn thấu cõi Nhân gian
  Định đoạt lại Thiên Đường và Địa Ngục
  Tổ chức lại những cơn mưa mùa thu
  Sắp xếp lại sắc trời
  Với cánh chim bay là nốt nhạc
  Tạo dựng mới những tầm cao khát vọng
  Sinh nở mới những mùa trăng yêu đương
  Chưa từng có bao giờ...”
Để nói về con đường sáng tạo thi ca đầy gian truân khổ ải, Trần Nhuận Minh đã viết:
                     "Tập thơ khép, nửa mái đầu xổ bạc"
Và:
"Viết được một câu thơ trung thực với nhân dân
Tôi đã đi qua 40 năm bão táp"
Tôi muốn mượn ý thơ đó của Trần Nhuận Minh để gửi gắm một phần nỗi niềm của mình: Viết được một câu trung thực với thơ Trần Nhuận Minh tôi đã đi qua 2 năm bão táp.
Bắc Ninh, 2012 - 2014

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét