Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Bảy, 15 tháng 2, 2014

Chí Linh phong vật chí (tiếp theo)

THƠ BÁT CỔ VÀ NGŨ NGÔN VỀ CHÍ LINH 
 (kỳ 4)
Phiên âm:
Phiếm duyệt thần kỳ tích thượng lưu
Kiến văn mục hạ tịnh kiêm thâu
Yên Mô thạch xứ thần sinh dị
Ninh bảo sơn truyền Phật tích lâu
Mão lĩnh thạchn ngâm minh Mạc kiếm
Linh Giang thạch tích trấn hà lưu
Cổ Phao hào thủy truyền đằng mã
Nam giản sơn yêu ký thám châu
Hồng khí tung hoành kinh tục nhỡn
Khoáng sơn tế đảo lẫm sơn thâu
Kỳ an hưởng đạc mê Cam quận
Hổ tự am lưu thấu Lục đầu.
Dịch nghĩa:
Rộng xem thần tích kỳ lạ còn lưu lại
Những điều tai nghe mắt thấy cũng thu nhặt ghi vào
Đá Yên Mô sinh ra thần một cách kỳ lạ
Núi Ninh Bảo tương truyền có dấu chân Phật tích
Vết đá Mão lĩnh ghi lời thề của lưỡi gươm nhà Mạc
Hòn đá thiêng làng Linh Giàng trấn giữ dòng sông
Nước hào Cổ Phao truyền lại chuyện cưỡi ngựa trên không
Sườn núi Nam Gián ghi dấu tìm ngọc
Đám lửa đỏ dọc ngang làm mắt tục sợ hãi
Khoáng sơn cúng lễ râm rả đầu mùa thu
Tiếng mõ am Lệ Kỳ
Làm mê người Cam quận
Chùa Hổ Tự có dòng nước chảy ngầm đến sông Lục Đầu.
Tạm dịch thơ:
Rộng xem thần tích còn lưu lại
Tai nghe mắt thấy bút ghi dần
Yên Mô thần nở trên khe đá
Ninh Bảo bụt xưa để vết chân
Mão lĩnh còn hằn lưỡi kiếm Mạc
Linh Giang đá vẫn trấn dòng sông
Nam giản lưng ghi dấu tìm Ngọc
Hào Phao nhắc truyện ngựa lên không
Hồng khi tung hoành kinh mắt tục
Khoáng Sơn nhộn nhịp lễ đầu thu
Lệ Kỳ chuông gõ mê Cam quận
Chùa Hổ ngâm thông nước Lục đầu.

Tại đầu làng Yên Mô, nổi lên ba chòm đá chạy quanh hình như ôm một cái ngai, trong đó một phiến đá vuông như một cái ghế, có thể rải được 2 chiéc chiếu. Giữa hòn đá có một chỗ vỡ dài đến hơn một thước. Theo tục truyền ngày xưa, bọn trẻ trâu tụ họp ở đây, thấy tiếng trẻ con khóc ở lưng núi, bèn gọi nhau kéo đến nơi xem, thì thấy một em bé mặt mũi khôi ngô, nắm trong chỗ phiến đá vỡ, tiếng khóc vang lên như tiếng chuông. Chúng bèn lấy nón úp lên, tranh nhau bế về nhà. Chợt mưa to gió lớn, cát đá tung bay mù mịt, em bé nhấy lên trên không bay đi mất. Trong không gian chỉ vọng lại tiếng nói rằng: “Ta là thần Phi Bồng đây”. Mọi người thấy thế lấy làm sợ hãi, bèn lập đền thờ, có nhiều linh ứng. Qua nhiều triều đại, được phong là Thượng đẳng thần. Nay đền vẫn phụng thờ như trước.
(Đoạn này giải thích câu “Thạch xứ thân sinh dị” trong bài thơ trên)

Trên núi xã Ninh Bảo, có một ngôi chùa cổ, đá có in vết như chân người, nên tục gọi là từ Bụt Dẵm.
(Đoạn này giải thích câu “Sơn truyền Phật tích lâu” trong bài thơ trên)

Xã ấy lại có ngọn núi tên là mão Sơn, dưới núi có một tảng đá vuông, ngang dọc chừng  thước, cao chừng 4 thước, ngang trên mặt có một vết chém dài chừng 1 thước, sâu ước  tấc, tục gọi là hòn Đá chém. Tục truyền rằng: khi chúa Mạc thua chạy đến đây, vung kiếm lên thề rằng: “Nhà Mạc còn phục hưng được thì cho chém hòn đá này làm  2 đoạn”. Nói rồi chém xuống không được, chỉ để lại một vết thôi.
(Đoạn này giải thích câu: “Thạch ngân minh Mạc kiếm” trong bài thơ trên).

Xã Linh Giang, có miếu thờ Trần Khánh Dư ở bên bờ sông, (gọi là đò Gốm). Ở đây có một tảng đã dài chừng 3 thước, khoát 1 thước, gọi là hòn đá nổi rất thiêng, không ai dám đến gần. Dân trong xã đóng cọc làm nêu bên cạnh tảng đá. Thời Tây Sơn, có một ông quan võ không tin, đái lên trên đảng đá, tự nhiên thổ ra huyết mà chết. Ngày nay nhân dân địa phương qua lại nhiều người đem giấy tiền vất vào góc nêu.
(Đoạn này giải thích câu: “Linh Giang thạch tích trấn hà lưu” trong bài thơ trên)

Hào Phao Sơn tục truyền rằng nhà Mạc bị thua, đóng quân tại thành Phao, muốn thuận dòng nước Cổ Trai mà không có nối, bèn sai quân sĩ khơi sông để tiện đường thủy. Một đêm đào từ cửa sông Phao Sơn đến xã Kiệt Đặc, quân sĩ bị gãy tay gãy chân đến hàng ngàn người. Chợt thấy một người phụ nữ, mình mặc áo trắng giương cung đứng trên mình ngựa bay lên trời biến mất. Biết là việc không thành, tướng mạc ra lệnh thôi không đào nữa, thu quân sĩ lại, cướp đường mà chạy. Nhừng nơi đã đào thành hào rãnh, đến nay nước vẫn không khô, tục gọi là Sông Đào.
(Đoạn này giải thích câu: “Cổ Phao hào thủy truyền đằng mã” trong bài thơ trên).

Xã Nam Giản có một ngọn núi gọi là Nùng Sơn (tục gọi là hang Nùng) nguy nga sừng sững, đó là một thắng địa của miền quê. Triều ngày trước vua đến ngắm cảnh ban cho tên là Độc Lạc Sơn. Lưng núi có hơn 10 cái hang sâu5, 6 thước. Tục truyền rằng đấy là dấu của thủy thần tìm ngọc.
(Đoạn này giải thích câu: “Nam Giản sô yêu ký thám châu” trong bài thơ trên).

Núi Phượng Hoàng xã Kiệt Đặc, tục truyền rằng có người xã ấy đi săn, ban đêm ở dưới chân núi, chợt thấy một vệt tròn đỏ giống như mặt trời, rực rỡ đáng sợ. Người ấy liền giương cung lên bắn rồi nằm phục xuống đất mà nghe. Anh ta thấy vật đó quay ngang quay dọc, cây cối xung quanh bị đả phá một hồi, thế rồi một chốc biến mất. Ngày hôm sau anh ta trở lại xem thì hầu hết cây cối bị gãy nát cả. Ngày nay cũng có người địa phương trong thấy hiện tượng đó.
(Đoạn này giải thích câu: “Hồng khí tung hoành kinh thạch nhỡn” trong bài thơ trên).

Lại có ngọn núi tên là Khoáng Sơn, trên núi có miếu Cao Sơn thần. Cứ đến mùa thu, ngày lành tháng tốt, nhân dân trong xã trai gái cúng lễ. Tục truyền rằng nếu không cúng lễ thì lúa bị hươu ăn, người bị hổ bắt.
(Đoạn này giải thích câu: “Kkoáng sơn tế đảo lẫm sơ thu” trong bài thơ trên).

Lại có một ngọ núi nữa tên là Lệ Kỳ Sơn, trên núi có chùa, Huyền Vân đời nhà Trần trước tu ở đây. Về sau gặp thời loạn lạc, chùa bị đốt cháy. Người dân địa phương nói rằng, bây giờ thỉnh thoảng ở trên núi nghe có tiếng chuông mõ, nhưng quanh núi leo lên thì lại không nghe tiếng gì cả, chỉ thấy một khoảng đất trống rỗng mà thôi.
(Đọa này giải thích câu: “Kỳ am hưởng lạc mê Cam quận” trong bài thơ trên).

Chùa Hổ Kỳ xã Điền Trì, tục truyền rằng: xưa có vàng chon tại trong chùa, gần đây có ngưới đao lên xem, chỉ thấy nước mạch tuôn ra mà thôi. Người ấy lấy một quả bưởi đánh dấu bỏ vào dòng nước rồi lấp đất lại. Sau đó qua sông Lục Đầu lại thấy quả bưởi trôi trên mặt sông, không rõ có mạch nước nào không, mà dòng nước lại chảy tới đó được?
(Đoạn này giải thích câu: “Hổ tự âm lưu thấu Lục đầu” trong bài thơ trên).
12/2/2014
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét