Chí Linh phong vật chí (23)
ĐỒNG HÃNG
Thơ vịnh phiên âm:
Lục
kiến Triều Dương khoa phiệt thế
Thả
khan đồng thị song huynh đệ
Ấu
công văn bút hoán thần đồng
Giám
xuất nhân thành văn điệp thể
Kích
cổ yêu ngân đởm cánh hào
Sát
ngưu tạo quyển tâm hà nhuệ?
Tranh
khôi Ưởng nhĩ áp ngân thu
Thiết
tư nhất phiến trùng khích lệ
Tứ
lực tam niên nhiệm hiểm đề
Thu
khoa ứng thí đăng cao đệ
Đồng
ca trạng bảng hận nan phù
Lão
độc thi thư ngôn bất kế
Nội
thích thị danh đệ diệc kỳ
Nhất
môn thư ấm thùy miêu duệ.
Dịch nghĩa:
Trong
sáu người Triều Dương nối dòng khoa cử
Hãy
xem hai anh em họ Đồng
Lúc
bé đi học được tiếng là thần đồng
Lúc
đi thi, khác với mọi người, làm văn hai thể
Đánh
trống xin tiền gan cũng to
Giết
bò nộp quyển lòng hăng hái ra sao ?
Tranh
khôi cùng ông Ưởng , áp đảo cả vi thu
Trộm
văn chối phắt, càng thêm khích lệ
Gắng
sức ba năm chấp mọi đầu đề hiểm hóc
Khoa
sau vào thi được đậu cao
Lời
ca Trạng bảng của trẻ con là hận khó tin
Về
già đọc sách nói không xiết được
Bị
vợ nói khích mà thành danh, người em cũng lạ
Một
nhà vinh hiển rạng rỡ cho dòng dõi đời sau.
Tạm dịch thơ:
Trong
sáu đại khoa xã Triều Dương
Anh em họ Đồng chuyện hãy kể
Nhỏ
học đã nổi tiếng thần đồng
Đi
thi khác người văn hai thể
Đánh
trống xin tiền gan góc thay
Giết
bò nộp quyển hăng hái thế
Tranh
ngôi cùng Ưởng đầu vi thu
Trộm
văn chối phắt thêm khích lệ
Ba
năm ra sức chấp hiểm đề
Khoa
sau vào thi chiếm cao đệ (1)
Trả
ca trạng bảng hận khó tin
Già
đọc thi thư nói không xuể
Vợ
khích thành danh em cũng kỳ
Dòng
dõi thi thư lâu rạng vẻ.
Đồng
Hãng là người làng Triều Dương, khi còn bé được gọi là thần đồng, nhưng phóng
khoáng không chịu câu thúc. Năm 14 tuổi trong kỳ thi Thái học, đầu đề ra là:
“Trùng tu Quốc tử giám” (Bài phú về việc sửa lại nhà Quốc tử giám). Hơn cả mọi thí sinh, ông
làm hai bài phú, quan trường hỏi tại sao, thì ông trả lời là đầu đề có chữ
“Trùng” ( nghĩa là hai lần). Tính phóng khoáng của ông đại để như vậy.
Về
thời trước, có dinh quan Thừa ty đóng tại Phao Sơn, gần xã Triều Dương. Một
hôm, ông đến trước dinh đánh ba hồi trống, quan nha trong ty nghĩ có việc công,
khăn áo chỉnh tề kéo cả ra, thấy chỉ có một người học trò, liền hỏi tại sao lại
đánh trống. Ông đáp:
-Kẻ
hàn sĩ muốn xin bữa cơm, sợ khó nói được đến nơi, nên đánh trống để quan nha
đều ra công đường, xin ăn cho tiện.
Quan
Thừa ty nói:
-Anh
đã là học trò, ta ra một đầu đề, làm được ta sẽ cho tiền cho gạo.
Ông
đáp:
-Trăm
đầu đề thì làm chứ một đầu đề thì không làm.
Quan
Thừa ty cùng nhân viên bèn ra đầu đề, ông ngoáy bút thành văn, ra đầu đề không
kịp. Trong chốc lát, trăm bài đã làm xong, lời thơ khiêm tốn đẹp đẽ, quan nha
đều tấm tắc khen, bèn tặng cho 5 quan tiền và một thúng gạo. Than ôi! Ông đúng
là bậc kỳ tài, gần đây, trăm bài thơ hãy còn, nhưng sau thời loạn thì thất lạc
mất cả. Tiếc thay!
Tục
truyền nhà ông nghèo, trong làng có một phú ông gả con gái cho, vì thế ông có
thể ra công học tập. Ông thường cậy tài, có ý đỗ đầu thiên hạ. Người thời bấy
giờ có câu: “Chí Linh Trạng bảng phi Hãng tắc Ưởng”. nghĩa là: “Trạng nguyên ở Chí Linh, không
ông Hãng thì ông Ưởng”. Nhưng về sau ông không đậu khôi nguyên mà ông Ưởng lại
đứng đầu bảng, đó chẳng phải là sàm ngữ hay sao ?
Người
ta lại kể rằng: khoa trước đi thi, ông khoe là thế nào cũng đậu. Lúc đóng quyển
thi, ông xin bố vợ giết một con bò, người trong làng chuẩn bị chặt tre làm cán
cờ, đón buổi vinh quy. Đến kỳ đệ nhất, ông làm đủ 5 bài kinh nghĩa, trong đầu
đề về kinh thi có câu: “Doanh doanh thanh dăng, chỉ vu kinh cúc” nghĩa là
“Nhặng kêu ve ve đậu trên gai góc”. Ông chưa rõ lời ra sao, không làm bài bỏ ra
ngoài. Bên cạnh có một vị lão nho thấy thế lấy làm lạ, hỏi tại làm sao? Ông nói
thật là chưa rõ nghĩa thì ông cụ đáp:
-Ông
mà bỏ ra thì còn ai thi nữa. Lão tuy già nhưng câu này còn nhớ, xin nán lại lão
đọc cho nghe.
Ông
nói phắt ngay rằng:
-Há
lại có người đầu thiên hạ mà theo người khác ăn cắp chữ hay sao?
Nói
rồi ra thẳng. Ra ngoài rồi ông tuyên bố
-Biết
đâu được họ lại ra đầu đề hiểm hóc như vậy. Đợi tôi đọc sách ba năm nữa, rồi
muốn hỏi thế nào cứ việc.
Khoa
sau, khi nộp quyển ông lại đòi giết bò như lần trước, ông bố vợ nói:
-Đối
với anh ta không tiếc gì cả, nhưng khoa trước đã thế mà không đậu, nay lại làm
như vậy e thiên hạ cười cho.
Ông
bỏ sang làng Lôi Động, vào một nhà ghẹo vợ người khác, bị người ta bắt được.
Ông bố vợ hiểu ý, bèn đem 60 quan tiền đến chuộc về, bất đắc dĩ phải ngả bò ra
mổ thịt ông mới chịu đi thi.
Vào
kỳ đệ nhất, ông lại oang oang nói:
-khoa
này ai mà ra được đầu đề hiểm hóc đến nỗi ông Đồng Hãng này không nhớ được mới
thật là người giỏi.
Khoa
này là khoa Kỷ Mùi, mở vào năm Quang bảo thư 5 triều Mạc. Ông cậy tài kiêu
ngạo, thời ấy ai cũng ghét. Vào thi đình, văn đáng đậu đệ nhất giáp cập đệ,
nhưng bị đánh xuống đệ nhị giáp. Ông rất lấy làm phẫn uất, ngày về vinh quy,
ông đi bộ đến xã Triều Dương rồi vùng vẫy vượt sông, lấy việc đó làm cái hận
suốt đời. Dưới triều Mạc, ông làm quan đến chức Công bộ thượng thư., hữu thị
lang, thừa chánh sứ. Đời Lê trung hưng, ông quy thuận vua Lê, được lưu dụng
theo tước cũ.
Đồng
Đắc, em trai ông, tài không bằng ông, học lực cũng lỗ mãng. Có lần vợ Đồng Đắc
cùng ngồi ngang hàng với vợ ông. Bố chồng trông thấy khuyên rằng:
-Chồng
nó là ông nghè, chồng mày chỉ là anh tú tài sao lại cùng ngồi như vậy? Từ nay
về sau không được làm như thế nữa nhé.
Vợ
Đồng Đắc phẫn uất về nói với chồng:
-Anh
không học đến đậu tiến sĩ, tôi sẽ không làm vợ anh nữa.
Nhân
lúc nhàn rỗi, Đắc hỏi anh:
-Như
em liệu có học được không?
Ông
đáp:
-Tiến
sĩ như anh có ít, ở trong triều thảy đều như chú mà thôi, có mấy người gọi là
có học.
Đồng
Đắc bèn theo học nữa. Đến khoa Mậu Thìn năm Hồng Phúc thứ 7, cũng đậu tiến sĩ,
được liệt vào hàng phú quý hiển đạt, làm quan đến chức Hộ bộ thượng thư, Đô cấp
sự trung. Đó là do vợ khích mà thành danh vậy.
Xét
ra Đồng Hãng là người tài học có thừa, nhưng đọc sách không mỏi. Người thời bấy
giờ đã có câu “Ông Triều, ông Dọc, còn học làm chi” (Triều chỉ ông Đồng Hãng,
Dọc chỉ ông Nguyễn Phong). Văn ông viết rất nhiều. Nay bài phú trùng tu Quốc tử
giám và hai bài phú lúc thi đậu của ông đều không còn nữa.
Các
vị khoa mục cùng làng với ông có những ai, xin tường lục ở sau, để chứng minh
câu: “Lục kiến Triều Dương khoa phiệt thế” trong bài thơ vịnh ông đã nói ở trên:
-Đồng Văn Giáo, ông nội ông Đồng Tôn
Trạch, năm 50 tuổi đậu đệ nhị giáp tiến sĩ khoa Đinh Sửu, năm Sùng Khang thứ
10, nhà Mạc, làm quan đến chức Thừa chánh sứ.
-Đồng Tôn Trạch, năm 33 tuổi, đậu tam giáp tiến sĩ, khoa Bính Tuất, năm
Phúc Thái thứ 4, đời Lê trung hưng, làm quan đến chức thượng thư phong tước
hầu, sau thăng Thiếu bảo quận công.
-Trần Tiến Giám, năm 37 tuổi, đậu tam giáp tiến sĩ, khoa Quý Hợi, năm
Chính Hòa thứ 4, làm quan đến chức Hữu thị lang, phong tước tử, tăng Thượng
thư, phong tước hầu.
-Đồng Bỉnh Do, năm 45 tuổi, đậu tam giáp khoa Tân Mùi, năm Chính Hòa
thứ 12, làm quan đến chức Tham chính.
(1)
Cao đệ: đậu cao
(ND)
21/1/2014
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét