Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Chủ Nhật, 12 tháng 7, 2015

Một người bạn cũ

(tiếp theo )

Bước đầu của con đường nghề nghiệp

Học xong, ông được phân công về làm việc tại Ban Vận trù học thuộc Bộ GTVT, một bộ thuộc lĩnh vực “sản xuất”. Xem ra đúng ngành, đúng nghề, nhưng ông lại có một nỗi buồn man mác: Là một trong những người học giỏi của nhóm chuyên đề, nếu được về một cơ quan nghiên cứu như Ủy ban Khoa hoc Kỹ thuật Nhà nước hay một trường Đại học thì có điều kiện nghiên cứu và có cơ hội tăng tiến hơn. Tuy vậy, với bản tính ham học hỏi, thích cái mới và thích được công hiến của tuổi trẻ lúc bấy giờ, ông vẫn làm việc một cách hồ hởi, nhiệt tình. Hơn nữa, xét cái tên cơ quan là “Ban Vận trù học”, ông là người được đào tạo bài bản hơn cả trong Ban, mặc dù đó chỉ là những gì từ sách vở. Ông rất may mắn tham gia vào rất nhiều hoạt động liên quan đến cuộc kháng chiến chống Mỹ như: Tổ chức những trạm trữ hàng dọc đường vào Nam để xe chở hàng có thể chở được nhiều và nhanh nhất cho miền Nam, trong điều kiện địch không kích thường xuyên. Xây dựng các phương án bốc, xếp hàng từ tàu và giải tỏa hàng ở cảng Hải Phòng nhanh nhất. Tổ chức cách tháo, lắp cầu phao nhanh nhất để kịp cho xe chở hàng qua sông vào ban đêm không bị máy bay địch oanh tạc. Chẳng hạn, như cầu Phú Lương, từ phương án ban đầu thao lắp 8 giờ, nhờ ứng dụng PERT, sau rút xuống chỉ còn 2 giờ. Nhờ vậy, 5 giờ chiều lắp cầu thì 7 giờ đã thông xe, và kịp thời tháo và cất dấu cầu phao xa nơi lắp đặt trước 7 giờ sáng hôm sau. Tổ chức phương án đại tu đầu tầu hỏa rút ngắn được 50% thời gian so với phương án ban đầu vẫn làm ở nhà máy toa xe Hà nội. Tổ chức phương án đóng tàu thủy nhằm rút ngắn thời gian tàu ra xưởng ở nhà máy đóng tàu Bạch Đằng,…

Ở một bộ “sản xuất”, công việc cần giải quyết luôn trong cảnh “nước sôi lửa bỏng” của thời kỳ chiến tranh phá hoại. Không chỉ có lãnh đạo, mà nhiều cán bộ của Bộ không ưa thích những anh hay đọc sách, nhất là đọc sách nước ngoài. Vì thế, ông và anh đồng nghiệp, anh Nguyễn Hữu Nguyên, một bậc đàn anh đã từng đậu tú tài, có nhiều năm làm chỉ huy pháo binh và tham gia đánh Điện Biên Phủ, thông thạo nhiều ngoại ngữ: Anh, Nga, Pháp, Trung, sống trung thực, chịu khó, vui vẻ và hài hước, như một ngọn đèn cạnh ông. Nhờ “gần đèn thì rạng”, đêm đêm ông say sưa đọc sách, học ngoại ngữ, nghiên cứu chuyên môn tại phòng ngủ tập thể đến tận khuya. Phần lớn sách chuyên môn lúc ấy là sách nước ngoài (như sách về ngôn ngữ lập trình chỉ có bằng tiếng Anh). Nhờ chịu khó nghiên cứu, lăn lộn để thử nghiệm nhiều đêm (Cơ quan có máy tính Minsk22 duy nhất bấy giờ chỉ có thể phân cho các bộ sản xuất được sử dụng vào các giờ ban đêm), ông và người anh đồng nghiệp cùng phòng vẫn có thể lập được chương trình và tiến hành tính toán thử nghiệm thành công nhiều bài toán vận trù học của cơ quan, không kém những cán bộ ở các viện, các trường Đại học cùng làm máy tính. Sự chuẩn bị chuyên môn vào thời gian này đặc biệt giúp ông rất nhiều cho thi cử và làm tốt nghiên cứu sinh sau này.

Năm 1972, ông thi đậu nghiên cứu sinh và đi học Nga văn. Cuối năm 1973, ông sang Liên Xô làm Nghiên cứu sinh tại Trường Đại học Tổng hợp Kiep, nước cộng hòa Ucraina, chuyên ngành Điều khiển học kinh tế. Vào những năm 70, Điều khiển học kinh tế ở Liên xô và các nước Xã hội chủ nghĩa chưa phát riển, phần lớn tài liệu tham khảo là tiếng Anh từ các nước Âu, Mỹ. Nhờ chuẩn bị tốt ngoại ngữ, ông đọc được nhiều tài liệu nước ngoài nên có điều kiện làm tốt luận văn. Cũng nhờ nhiều đêm lăn lộn để sử dụng máy tính trong nước, ông đủ kỹ năng để lập trình và thử nghiệm thành công các thuật toán do mình đề xuất trên các máy tính hiện đại của Liên Xô. Cho đến lúc ấy, nghiên cứu điều khiển kinh tế vẫn là làm các mô hình và thuật toán toán học. Giống như những người học và làm toán khác, ông yêu những vần thơ và những câu chuyện tình lãng mạn.




Hội đồng bảo vệ luận văn TS của NCS Nguyễn Văn Vỵ, 
tại trường Tổng hợp Kiep năm 1977. NCS đứng thứ 3 từ trái vào, 
Giáo sư hướng dẫn (Kornilova L.E.) đứng thứ 2 từ trái vào

Có lẽ, vì chúng làm tăng thêm chí tưởng tượng, làm dịu đi sự khô cằn và cô đơn của trái tim những người làm toán. Chả thế, ông được trao giải hai (không có giải nhất) về thơ trong cuộc thi văn nghệ của lưu học sinh Kiep năm 1975 cho bài thơ “Bông hoa tặng em”:


Muốn tặng em một bông hoa
Khi tình yêu đang thành sự thật.
Đắn đo nhiều, hoa nào đẹp nhất,
Trên trái đất này có trăm vạn thứ hoa:
Nở trắng rừng, hoa Ban bao la
Đồi nhuộm tím, hoa Sim màu chung thủy.
Hoa dại, hoa rừng em ơi có quý?
Hoa Cúc, hoa Lan, hoa Huệ hoa vườn.
Sợ em chê: không sắc chỉ có hương!
Muốn tặng bông Hồng nhưng nghĩ lại thương:
Gai hồng sắc lỡ đau bàn tay nhỏ.
Hoa Chun pan, hoa Hồng xanh xa lạ.
Em ưa chăng hoa đất nước người?
Hoa San hô mang sắc nước hương trời,
Em lại bảo: hoa khô không tình cảm!
Hoa tặng người yêu em ơi khó chọn.
Có ngại đâu, cuối biển cùng trời,
Dù núi cao, hay đất lạ xa xôi.
Anh muốn tự mình trồng những bông hoa
Có tất cả những gì em thích.
Chắt chiu ý từ trăm ngàn trang sách
Gom ánh đèn bao đêm thâu.
Như cây xanh gom nắng, chắt màu
(Luyện nhựa, xây hoa phải đâu đơn giản).
Cây đơm hoa tính ngày tính tháng
Hoa anh trồng dẫu sớm cũng tính năm.
Giấc ngủ tuổi xuân nhường nỗi băn khoăn.
Ruột bút bi thay bao lần không nhớ nữa!
Trang giấy viết đầy, trong đầu đã ngàn lần vạch, xóa:
Tìm sắc, tìm hương cho những bông hoa.
Bông hoa tặng em trong ngày tới không xa.
Những công trình, anh gọi những bông hoa
Vẫn hình dung với bao vẻ đẹp
Có tiếc đâu không đem tặng hết
Chỉ sợ em cười: anh đến ngẩn ngơ
Có ai tặng “hoa khoa học” bao giờ!

Kiep, 1/1975.

Bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ với bảy bài báo, trong đó có bài đăng trên tạp chí “Cibernetic” của viện Hàn lâm khoa học Liên xô. Ông trở về nước và may mắn được làm việc ở Ủy ban Kế hoạch Nhà nước, tại Viện toán kinh tế, nơi tập trung nhiều anh tài của Việt Nam lúc bấy giờ về toán học và điều khiển học. Ông luôn nghiêm túc và có trách nhiệm trong công việc, nên sớm được giao phụ trách phòng “kế hoạch hóa ngành lãnh thổ”. Từ cấp Phó phòng, ông được giao trách nhiệm trưởng phòng năm 1981. Năm 1988, ông chuyển về công tác ở Viện quản lý Kinh tế Trung ương, tại Trung tâm Phân tích Hệ thống ứng dụng, đảm nhận vị trí Phó giám đốc Trung tâm. Khi Trung tâm giải tán, ông chuyển sang làm Phó Vụ trưởng Vụ kinh tế Doanh nghiệp. năm 80, cuộc sống của mọi người dân ta ở vào thời kỳ cùng cực nhất: thiếu đủ mọi thứ, ngay cả những thứ tối thiểu. Nhưng cũng chính thời gian này, ông tham gia nhiều đề tài cấp nhà nước, cấp bộ với tư cách thư ký, chủ nhiệm hay thực hiện nghiên cứu trực tiếp và đã có nhiều kết quả nghiên cứu được công bố trong tạp chí hay kỷ yếu hội thảo. Người ta thường nói, đằng sau thành công của ông chồng là bóng dáng của người vợ. Chính nhờ có người vợ khéo tay, chăm chỉ lo việc nhà, không những nuôi con khỏe, dạy con ngoan mà còn giỏi kiếm thêm bằng nghề phụ (dệt len, dạy thêm) nên con cái no đủ, phát triển tốt và học hành tấn tới. Và cũng nhờ vậy, khi Nhà nước tổ chức phong chức danh khoa học chính thức lần đầu năm 1991, ông có được những kết quả đủ tiêu chuẩn để được phong phó giáo sư.

Năm 1998, ông chuyển về làm giảng viên của Khoa Công nghệ Thông tin, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên. Sau một thời gian ngắn, vì là phó giáo sư, ông được Trưởng khoa đề nghị tham gia Ban Chủ nhiệm. Hai tuần sau, ông Trưởng khoa hỏi lại, ông xin lỗi không thể tham gia được, vì mới về trường, ông muốn tập trung vào chuyên môn để trở thành một người thày thực thụ (trước đây làm quản lý và nghiên cứu, ông cảm thấy nhiều yêu cầu của người thày còn thiếu hụt). Ông cũng giới thiệu cho Trưởng khoa một người thay thế có đủ tiêu chuẩn và chỉ có một đề nghị: sau này, khi thành lập bộ môn mới, nếu phù hợp ông xin được làm chủ nhiệm bộ môn.

Về trường, ông chọn ngành Công nghệ phần mềm còn là mới mẻ ở Việt Nam lúc bấy giờ, và đi sâu vào lĩnh vực Phân tích và Thiết kế mà ông cho là khó nhất nhưng cũng thích thú nhất. Kinh nghiệm thực tiễn dạy cho ông biết rằng, để phát triển một lĩnh vực mới cần có một đội ngũ chung ý chí và cùng góp sức. Năm 2000, Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu thành lập Khoa Công nghệ trực thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, trong đó có khoa Công nghệ Thông tin. Sau một thời gian Khoa đi vào hoạt động ổn định, ông gặp và thuyết phục Giáo sư cho thành lập thêm bộ môn mới, bộ môn Công nghệ phần mềm. Lúc đó không ít người ở Khoa Công nghệ Thông tin phản đối, cho rằng chưa cần thiết hay không có người cho biên chế bộ môn. Nhờ sự thuyết phục Giáo sư Hiệu và những người liên quan, Giáo sư đồng ý cho làm đề án. Giáo sư Hiệu là người có hiểu biết rộng, có tầm nhìn xa, biết nghe và giám quyết. Khi nghe trình bày đề án về bộ môn Công nghệ Phần mềm, nhu cầu, nhiệm vụ và tương lai của nó, Giáo sư rất thích thú và ký ngay quyết định thành lập. Sau đó, có nhiều dịp đến nhà thăm Giáo sư, Giáo sư khuyến nghị thành lập Trung tâm Công nghệ phát triển phần mềm, và sẵn sàng cho mượn cả tầng hai (rộng gần 100m2) nhà mình để trung tâm làm việc. Rất tiếc, ý tưởng của Giáo sư bộ môn không thực hiện được, vì quá ít người. Bộ môn Công nghệ phần mềm ra đời với bốn thành viên: một phó giáo sư Nguyễn Văn Vỵ, một thạc sĩ và hai kỹ sư. Chỉ hơn hai năm sau, năm 2002, số sinh viên của khoa Công nghệ Thông tin đăng ký làm đồ án tốt nghiệp ở bộ môn đã đông không kém vào bất kỳ bộ môn nào, và có điểm học trung bình cao hơn các em đăng ký vào các bộ môn khác. Mặc dù có ít giáo viên đủ tiểu chuẩn hướng dẫn tốt nghiêp, nhờ có uy tín và quan hệ tốt, bộ môn đã huy động được các đồng nghiệp từ trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Viện Công nghệ Thông tin để hướng dẫn tốt nghiệp cho hơn ba chục em mỗi khóa. Hiện nay Bộ môn có 14 người, 3 phó giáo sư, 5 tiến sĩ, 1 thạc sĩ, 5 sinh viên đã tốt nghiệp để tạo nguồn.

Trong những sự kiện này, phải kể đến người thày đã hướng dẫn ông tốt nghiệp khi học ở khoa Toán: Phó giáo sư Trần Quốc Toản. Thày rất thông minh, triết lý sâu sắc, chuyện trò dí dỏm như một người bạn. Thày đã tư vấn cho ông ý tưởng và bước đi để phát triển bộ môn Công nghệ Phần mềm. Chính Thày đã tham gia vận động lãnh đạo Khoa và những người có ảnh hưởng cho việc thành lập bộ môn, và Thày cũng là người tư vấn để phát triển chuyên môn của bộ môn Công nghệ Phần mềm sau này.
(Còn nữa)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét