XÃ KIỆT
ĐẶC
(kỳ
2)
Dịch âm:
Đồng
ấp Nguyễn Phong cánh hữu danh
Thượng
thư chí sĩ phong Tuyển quận
Ấu
công văn bút phượng sơ sinh
Tảo
triệt thư vi hồng tiêm phấn
Nhượng
tọa nhân tri phúng hiến thành
Ái
sơn thi lộ kỳ phong vận
Danh
cao xuân bảng thiếu niên vinh
Vi liệt
thiên quan kiêm dự chấn
Thất
thế na phù quý tộ xương
Cố
sơn liêu tác minh thời ẩn
Lũ trưng
minh khả phu thù tri
Nhất
vàng hà phương tư thái vận
Kiều
niên cựu cảnh phú quý lai
Hồ
đảo mao âm xuân bất tận.
Dịch nghĩa:
Ông Nguyễn
Phong cùng làng lại có danh tiếng
Làm chức
Thượng thư về hưu gia phong Tuyển quận công
Lúc bé
văn viết giỏi ví như chim phượng hoàng mới sinh
Sớm
đỗ hương cống (1) như chim hồng dần bay bổng
Nhường
chỗ ngồi cho cha người ta khen là hiếu thành
Làm bài
thơ yêu núi rõ là phong vân kỳ diệu
Tên chiếm
bảng xuân (2) tuổi trẻ rất vinh dự
Giữ
chức thiên quan (3) danh tiếng lừng khắp nơi
Đời
thứ bảy khó giữ được ngôi nhà Mạc vững vàng
Núi cũ
để làm nơi ẩn dật thời minh thịnh
Thường
vời sao nỡ phụ lòng đãi ngộ đặc biệt
Lại
ra làm quan có hại gì giúp nước khi vận thái
Tuổi
cao cảnh cũ thích về hư
Đảo
hồ nhà tranh vui xuân mãi mãi.
Tạm dịch thơ:
Cùng
làng có Nguyễn Phong danh giá
Chức
Thượng thư quản cả tước công
Trẻ
thơ văn đã làu thông
Vi thu
(4) thắng cảnh chim hồng bay
cao
Biết
nhường chỗ ai nào chẳng quý
Mượn
lời thơ tỏ chí hồ sau
Vẻ
vang tên chiềm bảng vàng
Lẫy
lừng một chức thiên quan đương thời
Ngôi
Mạc đổ khôn tài chống đỡ
Về
núi xưa ẩn để yên thân
Chiếu
vời đâu dám phụ ân
Lại
ra giúp nước giúp dân chẳng nề
Khi tuổi
tác thích về cảnh cũ
Thích
núi hồ, am cỏ vui xuân.
Ông Nguyễn
Phong là người làng Kiệt Đặc, tên tự là Tuyết Đường, hiệu là Thiềm Tẩu. Ông tổ
của ông được phong là Từ Quảng hầu, mộ ở dưới núi xã Hậu Quan. Tương truyền đây
là nơi đất phát tích của ông, đến nay vẫn còn.
Người
cha của ông đỗ Hương cống, được tặng phong chức Thái bảo, sinh được 3 con trai,
con trưởng làm tri huyện Gia Lộc, con út làm chức Tri bạ, phong làm vệ úy. Ông
là con thứ hai.
Ông sinh
ra thông minh, lúc lên 4 tuổi, nghe anh đọc sách ông rất ham thích. Người cha
thấy ông minh mẫn, lấy sách của anh cho đọc. Lên 6 tuổi dạy cho âm luật làm
văn, lên 7 tuổi biết làm văn. Một hôm táng ngôi mộ tổ, người cha sai ông làm bài văn tế Hậu Thổ (5) Người
anh muốn thử tài ông bảo ông khởi thảo, ông cầm bút viết luôn.Bài văn viết là:
Dịch
âm:
“Lượng
khôn cư hạc hậu, bẩm đoài khí (6) chung linh, bao dong thể vật,
chính trực thông minh, uông hàm mạc trạng, hạo đãng man danh, cầu chi tất ứng,
cảm giả toại thành, thiết điện kim ngân phí lễ, lại nhất khu tôi thắng địa
hình. Ngưỡng Hậu thổ giáng lâm hâm hưởng, tỷ vong nhân mộ trạch an ninh, hậu tự
hưởng hòa bình chi phúc…Tử tôn đạt khanh tướng chi vinh. Gia truyền gia, gia kế
gia, do tồn phúc khánh, tướng xuất tướng, tướng nhập tướng. Tự thử dĩnh sinh.
Thực tại đại đức chi phát phúc dã”.
Tạm
dịch:
“lường
quả đất dày mỏng, bẩm đoài khí anh minh, bao dung xét vật, ngay thẳng thông
minh, mông mênh khó tả, rộng lớn khôn hình, cầu gì hẳn ứng, cảm ở lòng thành. Nay
nhân chọn được núi này, muốn muôn kiếp linh hồn yên ổn, dâng đặt bạc vàng lễ
mọn, nhờ một khu đất đẹp chênh vênh, xin Hậu thổ tới qua chứng giám, giúp vong
linh nhờ được yên lành, dòng dõi hưởng hòa bình phúc trạch, cháu con nên khanh
tướng hiển vinh, truyền nối được nghiệp nhà, lâu dài phúc khánh; ra vào cùng
làm tướng, từ đó phát sinh. Thực là nhờ phúc lớn của ngài cho phúc”
Văn
tế viết xong dâng lên, cha và anh xem xong không chữa được chữ nào. Ấy tài học
của ông như vậy.
Lúc ông
14 tuổi, thi một lần đỗ Hương cống, cùng khoa với cha, tên ông lại ở trên. Ngày
vào ăn yến, ông đứng mà không ngồi, quan trường lấy làm lạ hỏi, ông đem sự thực
trình bày, liền cho đổi chỗ ngồi. Lúc lớn lên, ông thích chơi non nước, ở trong
làng có 12 ngọn núi, ngọn nào cũng có nốt chân của ông. Ông làm bài thơ Yêu núi
là:
Dịch
âm:
Ngô
hà ái, ái duy san
Bất
viễn yên hà viễn thế gian
Cử
mục hữu thiên vân sắc ngũ
Đài đầu
mãn địa thảo hoa nhàn
Mai trào
tuyết hiểu tri xuân noãn
Bách
lập đông phong mậu tuế hàn
Phong
vũ bất mê điền hải chí
Diệp
chu ninh đãi phiếm tràng lan.
Dịch
nghĩa:
Ta thích
gì? Chỉ thích núi thôi,
Không
xa mây khói mà xa cõi đời
Ngước
mắt trông trời có mây năm sắc
Ngẩng
đầu nhìn đất hoa cỏ xanh tươi
Hoa mai
cười tuyết, biết khí xuân ấm đã đến
Cây bách
tươi tốt lúc gió đông chịu được khí lạnh
Mưa gió
không làm nản chí định lấp bể
Thuyền
lá dành chơi khoảng sông dài.
Tạm
dịch thơ:
Ta
yêu gì chỉ yêu núi thôi
Chẳng
xa mây khói xa cõi đời
Ngước
mắt trông trời mây sặc sỡ
Ngẩng
đàu nhìn đất hoa cỏ xanh tươi
Mai cười
tuyết sớm xuân về đó
Bách
dãi trời đông rét đến rồi
Mưa sấm
chẳng sờn gan lấp bể
Trên
sông âu thả chiếc thuyền chơi.
Năm ông
23 tuổi đậu TiẾN sĩ khoa Mậu Thìn năm thứ 7 niên hiệu Thuần Phúc triều Mạc, lại
trúng hạng ưu ở điện Đông các. Văn của ông chép trong tập hàn uyển nay còn thể
xét được. làm quan với nhà mạc đến chức Lại bộ thượng thư tả thị lang, được
phong tước Phúc Gián bá. Khi nhà mạc mất, ông cùng ông Nghiêm Sơn hầu Nguyễn
Doãn Khâm, ẩn ở trong núi Huyền Đinh, dân địa phương sợ bị liên lụy, ông làm
bài thơ quốc ngữ tự than rằng:
Ta muốn
yên thân lánh chốn nghèo
Chỉ
là ẩn dật há rặng phèo
Rồi
phá gai góc làm nhà ở đó. Một hôm ông cùng Nguyễn Doãn Khâm, lên ngắm núi Báo
Đức, Doãn Khâm ngâm luôn rằng:
Cõi ta
ta mở thiên hoan dã
Nữa
nữa con em nối gót theo
Ông liền
họa nguyên vận mà ngâm rằng:
Bước
cõi thanh vân ta mới mở
Nữa
nữa con em sẽ bước theo.
Quả
nhiên về sau cháu 5 đời của Nguyễn Doãn Khâm lại đậu tiến sĩ mà con cháu của
ông thì chưa có tiếng tăm gì. Người ta cho là ý câu thơ của hai ông chầy chóng
khác nhau linh nghiệm là ở đó.
Lại
khi hai ông cùng ẩn dật, thương xướng họa với nhau: thơ Đường, thơ Nôm làm rất
nhiều tập, nhưng đến nay thất truyền.
Đến
năm thứ 16 niên hiệu Quang Hưng triều Lê, năm Khang Hựu nhà Mạc chiếm giữ thành
Phao Sơn, vua ngự giá thân chinh (7) bắt được tôn thất triều nhà Mạc
không kể xiết. Ông hiện đang ở núi ẩn dật, quan Thái tể Vân Điềm là Nguyễn Thực
tiến ông lên vua, và cho người đến núi vời ông về kinh, ông bất đắc dĩ phải về. Triều
đình thấy ông là người văn học, nhân lúc dùng ông cho nguyên chức quan cũ
Năm
Thận Đức thứ 16, cho chức Hình bộ thượng thư. Viêm Khê hầu là quan triều cũ. Khi
ông tại chức nhân lúc thiên tai, trình bầy 10 điều thời sự, vua nhận lời,
thưởng cho rất hậu. Dần sau vì mới khôi phục được nước, việc sứ nặng nề, liền
sai ông ra cửa quan đón tiếp sứ thần.Khi xong việc về, tuổi già xin hưu. Ông về
mở đám hát chèo làm vui, lại đào ở sau vườn đào một cái hồ, giữa đắp hòn đảo cây
cối rậm rạp, dựng lên một cái am nhỏ, khi chơi ngắm cảnh đề bài thơ rằng :
Dịch âm :
Nhất hồ sơn thủy nhất mao am
Thảo mộc ngư long nhất nhị tam
Thiên hạ hữu thiên xuân bất lão
Song tiền thượng ký giảng Hà nam (8)
Tạm dịch thơ :
Một khoảnh nước non một nếp nhà
Cỏ cây tôm cá cảnh vài ba
Dưới trời lại có trời xuân mãi
Cửa sổ sách trình nhớ đọc qua.
Ông làm đến chứ Lễ bộ thượng thư, kiêm Đông các
đại học sĩ, làm chức Tế hữu trường Quốc tử giám, khi về hư được gia phong chức
Thái Bảo Tuyển Quận công thọ được 85 tuổi.
Ông văn học có dư,mà vẫn ham đọc sách, người lúc
ấy có câu ; « Ông Triền, ông Dọc còn học làm gì ? ». (Ông
Triền tức ông Đồng Hãng, Ông Dọc tứ là ông Nguyễn Phong).Ông làm văn phút chốc
là xong, bút thao thao không dứt. Phú 2 thiên, thơ 10 thiên, dùng chữ dồi dào,
học trò rất nhiều. Ông từ kinh đô về, đi đường nói về văn học, thấy cảnh ở bên
đường ông bèn đọc thơ ngay. Có một người học trò xin ông làm bài phú « Quang
Vũ rược mã » (9) Ông đã làm một bài rất bình thường, nhưng
không có ý khởi đề, lại làm thể nữa mới là khởi đề hay. Ngày gần đây hai thể
phú đó hãy còn nhưng hiện nay thì đều đã mất cả. Ông ngày thường hay làm nhiều
bài văn. Có làm bài văn tế tế 30 vần, mối câu 4 chữ, mối bài văn một thể khác,
lời ý rất hay. Các ông danh công đời sau ở trong làng cũng không sửa được một
chữ nào. Đến nay những bài văn đó không còn.
Ôi ! Ông đáng gọi là một bậc danh nho của một
thời ! Xét về sự tích của ông trước có gia phả, sau khi loạn lạc mất hết. Nay
chỉ kể đại lược họa may còn một phần mười đó thôi.
Ghi chú:
(1) Hương cống:đỗ khoa thi hương, sau gọi là cử nhân
(2) Bảng xuân: Bảng thi mùa xuân, tức là thi hội đậu tiến sĩ
(3) Thiên quan: Quan thượng thư bộ Lại
(4) Vi thu: Thi hương dậu cử nhân
(5) Hậu thổ: Thần đất ở một địa phương
(6) Đoài khí: Linh khí về phương tây
(7) Ngự giá thân chinh: Xe vua đi đánh giặc
(8) Hà nam: Quê hai ông Trình Di, Trình Hiệu, hai nhà danh nho Trung Quốc.
(9) Phú và sách: hai thể văn ngày xưa.
Ghi chú:
(1) Hương cống:đỗ khoa thi hương, sau gọi là cử nhân
(2) Bảng xuân: Bảng thi mùa xuân, tức là thi hội đậu tiến sĩ
(3) Thiên quan: Quan thượng thư bộ Lại
(4) Vi thu: Thi hương dậu cử nhân
(5) Hậu thổ: Thần đất ở một địa phương
(6) Đoài khí: Linh khí về phương tây
(7) Ngự giá thân chinh: Xe vua đi đánh giặc
(8) Hà nam: Quê hai ông Trình Di, Trình Hiệu, hai nhà danh nho Trung Quốc.
(9) Phú và sách: hai thể văn ngày xưa.
13/1/2014
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét