LÀNG TRỰC TRÌ
(kỳ 1)
Dịch âm:
Khoa
việt tương thừa diễn thế văn
Trực
Trì danh ấp hữu tam Trần
Hộ
tào Lễ viên tham thiên chúc
Tướng
ấn nhung mao trọng nhất thân
Trú gấm
song toàn nhân thế hãn
Thái
kỳ lưỡng diệu thánh nhân ân
Ngũ thế
thù ân di hiếu tử
Cô thành
xướng nghĩa kiến tiên quân
Khuyến
trung dĩ đại Ngô hoàng điểm
Từ
lộc thiên cam dật lão bần
Chính
thị văn gia tiêu nhất thế
Huân
danh phong tiết tại nhân văn.
Dịch nghĩa:
Dòng
dõi khoa hoạn đời đời nối tiếp
Làng
trực trì danh tiếng có ba người họ Trần
Làm quan
ở Bộ hộ và Bộ Lễ
Ân tướng
cờ nhung tấm thân sang trọng
Hai cha
con áo gấm về làng cùng ngày, người đời hiếm có
Một
lá cờ thêu câu đối ban cho, nhà vua ân cần
Năm đời
đền ơn dành để cho con hiếu
Một
thành xướng làm việc nghĩa, được gặp vua ngày trước
Từ
bổng lộc, dành làm quan hưu thanh bạch
Khuyên
trung nghĩa được nhà vua lục dụng
Chính
là nhà văn tiêu biểu thời bấy giờ
Phong
tiết công danh người sau còn nghe tiếng
Tạm dịch thơ:
Làng
Trực Trì văn khoa lừng lẫy
Nhà họ
Trần mừng thấy ba ông
Dự
quyền bộ Lễ, bộ Công
Vẻ
vang ấn tướng cờ nhung sáng ngời
Hai áo
gấm vinh hồi quê cũ
Một
cờ thêu ơn chúa gia ban
Năm đời
hưởng thụ công ân
Một
thành xướng nghĩa trung quân hết lòng
Khuyên
trung nghĩa ghi trong quốc sử
Từ
lợi danh tìm thú tiêu dao
Một
nhà nức tiếng văn hào
Huân
danh phong tiết đời sau còn truyền.
Trần Đạo
Ông là người làng Trực Trì, tục gọi là Rồng, tổng An
Hộ, đậu đệ tam giáp tiến sĩ, khoa Canh Tuất năm thứ 8 niên hiệu Cảnh Trị đời Lê
Trung Hưng, làm quan đến chức Quang tiến thận đại phu, Quang lộc tự khanh,
phong tước Nam, sau được phong chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu, Hộ bộ tả
thị lang, phong tước Phương Trì hầu, cho tên hèm là Trung Cẩn.
Trần Cảnh
Là con của Trần Đạo, đậu đệ tam giáp tiến sĩ, khoa Mậu Tuất
năm thứ 14 niên hiệu Vĩnh Thịnh, làm quan đến chức Đặc tiến kim tử vinh lộc đại
phu, Công bộ tả thị lang, phong tước Sách huân bá, cho tên hèm Trung Lương. Khi
ông 21 tuổi đậu hương cống, năm 40 tuổi đậu tiến sĩ. Xét lời truyền lại: ông
Trần Cảnh lúc nhỏ tên là Thiều, lớn lên tên là Cảnh, tên tự là Oảnh Phủ, sinh
giờ Thìn ngày 14 tháng 11, niên hiệu Chính Hòa thứ 5, con bà họ Trần, là vợ cả
ông Trần Đạo. Người anh cả ông mất sớm, ông là con trưởng. Khi 1 tuổi, mồ côi
bố. Ông chăm học, cùng cậu thứ du học ở
kinh đô, nổi tiếng học giỏi. Hội tập văn quang Thượng ra văn làm ngay tại chỗ. Đề
thơ: “Đô dân hạ Ngu Thuấn tức thiên tử vị” (nhân dân mừng Nghiêu Thuấn lên ngôi
thiên tử) dùng vần “thiên” và một bài đoan, hẹn đốt hết nén hương là làm văn
xong. Thơ ông làm rằng:
Câu
phá: Kỷ tại thần lòng dược tại uyên
Nhất triêu hỷ kiến
tiện phi thiên
2 câu thực (mất)
2 câu luận:
Bồ địa
hân quan hồng nhật xuất
Thần kinh khoái đổ tử
vân triều
2 câu kết:
Trung quang doãn hiệp
tương hà chúc
Nguyện hiệu phong nhân
chúc đế tiền
Dịch nghĩa:
Bao
năm rồng thần nhảy ở nơi vực thẳm
Một
buổi sớm mừng thấy được bay lên trời
…………………………………………….
…………………………………………….
Đất
Bồ bản (1) mừng thấy mặt trời mọc
Chốn
thần kinh (2) vui xem đám mây tía quanh
Hợp
với trùng quang (3) biết lấy gì dâng chúc
Xin bắt
chước ngoài đất Hoa phong (4) dâng chúc trước vua.
Tạm dịch thơ:
Bao thuở
rồng thiêng nhất vực sâu
Ngày
nay được thấy thoắt bay cao
…………………………………..
……………………………………
Bồ
bản vui xem vừng nhật hiện
Thần
kinh mừng thấy đám mây bao
Trùng
quang không biết dâng gì chúc
Xin học
phong nhân chúc thánh trào.
Quan
chấm văn khen ngợi không ngớt. Năm ông 22 tuổi, tháng 11 niên hiệu Vĩnh Thịnh
thứ nhất, thi đậu tam trường (5) tháng 11 niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ 8
thi đậu hương cống (6), tên thứ 2 trên bảng thi văn đều hạng ưu mà
quan trường để thứ 2. Mùa xuân năm Vĩnh Thịnh thứ 14, ông thi hội đậu thứ , thi
đình văn văn đáng đậu Hoàng giáp chính bảng, vì chút lầm không hợp cách nên tên
ở thứ 7. Khi ông làm quan, vì bậc lão thành tự trọng không theo thói tục, nên
làm quan lâu năm mà không được đề bạt. Tới khi ra làm quan ở ngoài quận, có
nhiều giặc dã, ông được vua ban lá cờ “ Bình nhung đại tướng quân” với một gươm
nắp vàng, một ống kính thiên lý, trăm trận xông pha, đến đâu được đó. Khi ông
65 tuổi, lấy cớ tuổi già xin về hưu trí, vừa gặp lúc con út ông là Trần Tiến đậu
tiến sĩ, vua chuẩn y cho hai cha con ông về vinh quy cùng một ngày, ai ai cũng
đều khen ngợi! Vua ban cho lá cờ thêu đôi câu đối
Kế thế đăng khoa tằng tích hữu
Lưỡng vinh đồng nhật lại kim hy
(Nối
đời thi đậu xưa từng có
Cùng
lúc vinh quy nay hiếm thay)
Lại còn bài trướng của triều đình mừng vẫn còn truyền tụng
Đến giờ dần ngày 5 tháng 6 năm Mậu Dần niên hiệu Cảnh Hưng
thứ 19, ông mất tại quê nhà, thọ 65 tuổi.
Ghi chú:
(1)
Bồ Bản: chỗ vua
Ngu Thuấn đóng đô ở đó
(2)
Thần kinh: kinh
đô của nhà vua, có ý tôn kính
(3)
Trùng quang: sáng
láng tưng bừng, nghĩa bóng là nói đức vua Thuấn sáng láng tưng bừng như ánh mặt
trời, mặt trăng, ngôi sao.
(4)
Hoa phong: xưa
người đất Hoa phong chúc vua Nghiêu bằng câu chúc”Tam đa” là đa phú, đa thọ, đa
nam tử nghĩa là nhiều của, nhiểu tuổi thọ và nhiều con trai.
(5)
Tam trường: thi
hương có 3 kỳ: nhất trường, nhị trường và tam trường
(6)
Hương cống: người
đậu thi hương, sau gọi là cử nhân.
7/2/2014
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét