3.
奉賡聖製 “觀德殿
賜進士及弟宴”詩韻
禁菀新晴樹影斜
珠餚官焙帝念多
鴻儒彩筆賡辰瀚
俊士峩冠揷御花
訓誘慇懃明主意
荣華赫奕眾人誇
尊臣柷訟無他語
四海春风樂一家
陳元旦
Phiên âm:
Phụng canh thánh chế “Quan Đức điện
tứ tiến sĩ cập đệ yến” thi vận
Cấm uyển tân tình thụ ảnh tà
Châu hào quan bội đế niệm đa
Hồng nho thái bút canh thần hãn
Tuấn sĩ nga quan sáp ngự hoa
Huấn dụ ân cần minh chủ ý
Vinh hoa hách dịch chúng nhân khoa
Tôn thần chúc tụng vô tha ngữ
Tứ hải xuân phong lạc nhất gia.
Trần Nguyên Đán
Dịch nghĩa:
Họa vần bài thơ “Ban yến cho người
đỗ tiến sĩ ở điện Quan Đức” của nhà vua
Trong vườn cấm nắng mới lên bong cây đổ nghiêng
Yến bày bát ngọc cùng với quan hầu ơn vua thật nhiều
Vẻ bút của bậc đại khoa họa vần thơ nhà vua
Chiếc mũ người hiền sĩ cài bong hoa ngự
Lời ân cần huấn dụ đấng minh quân biết bao mong mỏi
Cảnh vinh hoa rực rỡ người đều khen
Kẻ bề tôi này muốn chúc tụng nhưng không biết nói gì hơn
Chỉ xin chúc bốn bể một nhà vui trong gió xuân
Dịch thơ:
1.
Vườn cấm nắng lên bóng đổ tà
Quan hầu bát ngọc yến bày ra
Hoa vua cài mũ người hiền sĩ
Vẻ bút họa thơ bậc đại khoa
Huấn dụ lời vua bao gửi gắm
Lời khen miệng chúng mấy vinh hoa
Muốn dâng lời chúc lời khôn nói
Mong gió xuân vui khắp mọi nhà.
Đỗ Đình Tuân dịch
2.
Nắng hòa vườn cấm nhuốm thanh tân
Yến ẩm linh đình thấm đức ân
Bút họa thơ vua khen học sĩ
Mũ cài hoa ngự đẹp văn nhân
Ân cần huấn dụ lòng minh chúa
Tấm tắc vinh hoa miệng thế trần
Chúc tụng dám đâu lời lẽ khác
Yên vui bốn bể một nhà xuân.
Đào Phương Bình dịch
4.
奉賡御製
“秋懷”詩韻
勲業鏡中摧歲晚
經綸紙上謾心勞
江山云盡一天淨
殿閣风生萬籁號
晝静懶看書似海
酒星方觉事如毛
箫關此日無多壘
幾點苔花秀寳刀
陳元旦
Phiên âm:
Phụng canh ngự chế
“Thu hoài” thi vận
Huân nghiệp kính trung thôi tuế vãn
Kinh luân chỉ sự mạn tâm lao
Giang sơn vân tận nhất thiên tịnh
Điện các phong sinh vạn lại hào
Trú tĩnh lãn khan thư tự hải
Tửu tinh phương giac sự như mao
Tiêu quan thử nhật vô đa lũy
Kỷ điểm đài hoa tú bảo đao.
Trần Nguyên Đán
Dịch nghĩa:
Họa vần bài thơ
"Thu hoài” của nhà vua
Trước gương công nghiệp chỉ thôi thúc cho tuổi mau già
Trên giấy kinh luân bàn đến thêm mệt lòng
Non sông đã quang mây cả một thời trong sáng
Cung điện khi gió nổi như có muôn tiếng sáo
Ban ngày yên tĩnh sách nhiều như biển mà ngán xem
Lúc tỉnh rượu công việc bề bộn mới nhớ ra
Ngày nay ngoài Tiêu Quan không có lắm chuyện phiền nhiễu
Mấy đám rỉ đã mọc lốm đốm trên thanh bảo đao.
Dịch thơ:
Việc chung thôi thúc tuổi mau già
Chính sự bàn nhiều chỉ khổ ta
Non nước mây quang trời sáng láng
Lâu đài gió nổi sáo ngân nga
Ngày yên sách lắm mà xem ngán
Rượu tỉnh việc nhiều mới nhớ ra
Biên ải ngày nay không lắm chuyện
Bảo đao lốm đốm rỉ như hoa.
Đỗ Đình Tuân dịch
5.
九月三十日夜有感
疎櫺半掩逗霜花
銀漢無光月影斜
香度小鐺新稻粥
煙凝古鼎熟蘭茶
千金難買好秋色
一去不回閑歲花
晚菊早梅新富貴
青燈黃卷舊生涯
陳元旦
Phiên âm:
Cửu nguyệt tam thập nhật dạ hữu cảm
Sơ linh bán yểm đậu sương hoa
Ngân hán vô quang nguyệt ảnh tà
Hương độ tiểu đang tân đạo chúc
Yên ngưng cổ đỉnh thục lan trà
Thiên kim nan mãi hảo thu sắc
Nhất khứ bất hồi nhàn tuế hoa
Vãn cúc tảo mai tân phú quý
Thanh đăng hoàng quyển cựu sinh nhai.
Trần Nguyên Đán
Dịch nghĩa:
Cảm xúc đêm ba mươi tháng chín
Song thưa nửa khép đậu lại sương hoa
Sông Ngân không sáng ánh trăng chênh chếch
Hương thơm bốc từ chiếc niêu nhỏ nấu cháo gạo mới
Khói tụ lại ở chiếc đỉnh cổ chè lan đã ngấm
Sắc thu đẹp ngàn vàng khó mua
Thời gian nhàn phí một đi không trở lại
Cảnh cúc tàn mái ớm lại có cảnh phú quý mới
Đèn xanh sách vàng vốn là nghiệp cũ.
Dịch thơ:
1.
Song thưa nửa khép đọng sương sa
Ngân Hán mờ di ánh nguyệt tà
Hương bốc niêu con mùi cháo mới
Khói xông đỉnh cũ ấm trà pha
Nghìn vàng khó đổi mầu thu đẹp
Một tếch không quay cảnh tuổi già
Hoa mới cúc mai là phú quý
Sách đèn nếp cũ ấy sinh nhai.
Nguyễn Đức Vân dịch
2.
Sương hoa đọng lại mé song thưa
Ánh nguyệt chênh Ngân Hán tỏ mờ
Ánh nguyệt chênh Ngân Hán tỏ mờ
Nấu ở niêu con mùi cháo nức
Tụ từ đỉnh cũ khói trà đưa
Nghìn vàng khó đổi vẻ thu đẹp
Một mất khôn đòi tuổi trẻ xưa
Đèn sách ấy là nghề nghiệp cũ
Cúc chiều mai sớm vẫn say sưa.
Đỗ Đình Tuân dịch
6.
至櫺山鳳凰峰
雙鳳悠然望杳冥
鳳凰萬古愛芳名
麟峰塔倒如紅影
鼈水泉鳴作雨聲
危磴經年苍蘚合
断橋過雨黑芝生
松风日晚喧空響
相似来儀奏九成
陳元旦
Phiên âm:
Chí Linh sơn Phượng Hoàng phong
Song phượng du nhiên vọng liểu minh
Phượng Hoàng vạn cổ ái phương danh
Lân phong tháp đảo như hồng ảnh
Miết thủy tuyền minh tác vũ thanh
Nguy đẳng kinh niên thương tiển hợp
Đoạn kiều quá vũ hắc chi sinh
Tùng phong nhật vãn huyên không hưởng
Tương tự lai nghi tấu cửu thành.
Trần Nguyên Đán
Dịch nghĩa:
Đỉnh Phượng Hoàng ở núi Chí Linh
Xa xa thấp thoáng đỉnh Song Phượng
Núi Phượng Hoàng nổi tiếng tự ngàn xưa
Tháp ở Lân Phong nghiêng xuống như bong cầu vồng
Suổi ở Miết Thủy reo lên như tiếng mưa rơi
Bậc đá cheo leo quanh năm rêu xanh phủ lấp
Chiếc cầu gãy sau cơn mưa nẫm đen mọc lên
Chiều tà gió nổi thông reo vang giữa trời
Giống như chim Phượng Hoàng về chầu tấu chín khúc nhạc.
Dịch thơ:
1.
Song phượng dập dờn thấp thoáng xa,
Phượng Hoàng nổi tiếng tự ngàn xưa.
Kỳ Lân tháp ngả như vồng bóng;
Miết Thủy suối gào giống tiếng mưa.
Dốc núi đá chồng rêu phủ lấp;
Tan mưa cầu gãy nấm đen mờ.
Chiều tà gió nổi thông reo hát,
Như phượng hoàng về tấu cửu ca .
Đỗ Đình Tuân dịch
2.
Song Phượng xa xa mây khói bay
Phượng Hoàng nức tiếng tự xưa nay
Tháp Lân chênh chếch cầu rồng rọi
Suối Miết ào ào mưa gió bay
Phiến đá già nua rêu phủ kín
Cây cầy xiêu vẹo mốc bám đầy
Chiều tà lộng gió thông vi vút
Phượng múa rồng chầu khúc nhạc hay.
Hoàng Giáp dịch
15/3/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét