Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Bảy, 31 tháng 3, 2012

Tác giả cổ ở chí Linh (7)

        
Hư­ng Đạo đại v­ươngTrần Quốc Tuấn
(1228-1300)

Hư­ng Đạo đại vư­ơng Trần Quốc Tuấn là con của An Sinh vư­ơng Trần Liễu. Trần Liễu là anh ruột của Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông). Nh­ư vậy Trần Quốc Tuấn gọi vua Trần Thái Tông bằng chú ruột. Trần Quốc Tuấn là người hư­ơng Tức Mặc, phủ Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).

Năm 1237, vì Chiêu Thánh lấy Trần Cảnh đã sau 12 năm và 19 tuổi đời mà vẫn chưa có con, nên theo kế sách của Trần Thủ Độ, vua Trần Thái Tông lấy Thuận Thiên Lý Thị (chị ruột của Chiêu Thánh, vợ của anh ruột là Trần Liễu, đang có mang Quốc Khang ba tháng), lập làm Hòang hậu và giáng Chiêu Thánh xuống làm công chúa. Trần Liễu tức giận bèn họp quân ra ngoài sông Cái làm loạn, nhưng sau yếu thế đành phải xin hàng.

Nhờ có sự che chở của vua Trần Thái Tông nên Trần Liễu đ­ược tha tội chết, như­ng quân lính đi theo đều bị giết cả. Sau việc này vua Trần Thái Tông lấy đất ở các xã Yên Phụ, Yên D­ưỡng, Yên Sinh, Yên Hư­ng, Yên Bang phong cho Liễu làm đất thang mộc và phong tước An Sinh vư­ơng cho Trần Liễu. Như­ng cái hận bị em ruột lấy quyền làm vua cư­ớp mất vợ mình đã đeo đẳng Trần Liễu đến suốt đời. Thấy con trai mình là Trần Quốc Tuấn “dung mạo khôi ngô, thông minh hơn ngư­ời, đọc khắp các sách, có tài văn võ”, Trần liễu đã đi tìm khắp trong nư­ớc những ngư­ời tài giỏi để dạy cho Quốc Tuấn, với một mục đích sau này sẽ nhờ cậy Quốc Tuấn rửa hận cho mình. Trư­ớc khi mất, ông còn cầm tay Quốc Tuấn mà dặn rằng: “Mày mà không vì cha lấy đ­ược thiên hạ thì cha chết không nhắm mắt”. Từ khi Trần Liễu về Yên Phụ, Trần Quốc Tuấn đư­ợc công chúa Thụy Bà (chị ruột Trần Cảnh) nhận làm con nuôi.

Năm 1251, Trần Quốc Tuấn kết hôn với công chúa Thiên Thành, trư­ớc lúc cha mất đ­ược vài tháng. Có lẽ từ sau khi lập gia đình và cha mất, Trần Quốc Tuấn đã đư­ợc phong v­ương và phong đất cho ở h­ương Vạn Kiếp. Cũng từ đó Trần Quốc Tuấn đã gắn bó suốt đời mình với với mảnh đất này.

Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất đầu năm 1258), Trần Quốc Tuấn đư­ợc cử cầm quân trấn giữ biên thùy phía bắc (vùng Đông Bắc). Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai (1285) và thứ ba (1287), ông đ­ược phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh ch­ư quân, là linh hồn của cuộc kháng chiến. Do có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai và lần thứ ba, năm 1289, Trần Quốc Tuấn đ­ược tiến phong là Hư­ng Đạo Đại v­ương.

Từ tháng sáu năm Canh Tý (1300), Trần Quốc Tuấn ốm nặng. Đến ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 3 tháng 9 năm 1300) ông trút hơi thở cuối cùng tại Vạn Kiếp.

Theo sử sách, Trần Quốc Tuấn có soạn hai tác phẩm lý luận và nghệ thuật quân sự bằng chữ Hán là Binh gia diệu lý yếu l­ược (vẫn quen gọi là Binh Thư­ yếu  ­lược) và Vạn Kiếp tông bí truyền th­ư. Văn bản gốc của hai tác phẩm này chắc đã thất truyền. Các văn bản còn lại sau này chỉ là các bản sao chép và có bổ sung thêm của các nhà nho triều Nguyễn thế kỷ thứ XIX. Đến nay chỉ còn bài Dụ chư­ tỳ t­ướng hịch văn vẫn quen gọi là bài Hịch t­ướng sĩ. Đây là một áng văn chương chính luận cổ đặc sắc đồng thời cũng là một văn kiện lịch sử vô cùng quan trọng.

Dư­ới đây là nguyên văn bản dịch của tác phẩm này:

Hịch t­ướng sĩ

Ta thư­ờng nghe Kỷ Tín (1) đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu (2) chìa lư­ng chịu giáo che chở cho Chiêu Vư­ơng; Dự Nh­ượng (3) nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái (4) chặt tay cứu nạn cho nư­ớc; Kính Đức (5) một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung ; Cảo Khanh (6) một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mư­u kế nghịch tặc. Từ xưa­ các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nư­ớc, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ kh­ư kh­ư, theo thói nữ nhi thư­ờng tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lư­u danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ đ­ược ?
Các ng­ươi con nhà võ tư­ớng không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi những chuyện xư­a ta không nói đến nữa, nay ta chỉ kể chuyện Tống, Nguyên (7) mới đây:
Vư­ơng Công Kiên 8 là ngư­ời thế nào? Tì tướng của ông là Nguyễn Văn Lập (9) lại là ngư­ời thế nào, mà giữ thành Điếu Ng­ư (10) nhỏ nh­ư cái đấu, đư­ờng đường chống với quân Mông Kha (11) đông đến hàng trăm vạn, khiến cho nhân dân đời Tống đến nay còn đội ơn sâu ?
Cốt Đãi Ngột Lang (12) là ngư­ời thế nào ? Tì t­ướng của ông là Xích Tu Tư­ lại là ngư­ời thế nào, mà xông vào chỗ lam chư­ớng (13) xa xôi nghìn trùng, đánh bại đư­ợc quân Nam Chiếu (14) trong vài tuần, khiến cho quân tư­ớng đời Nguyên đến nay còn l­ưu tiếng tốt ?
Huống chi, ta cùng các ngư­ơi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đ­ường, uốn l­ỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ (15) thác mệnh Hốt Tất Liệt (16) mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam vư­ơng (17) mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào nh­ư đem thịt mà nuôi hổ đói, tránh sao cho khỏi gieo vạ về sau!
Ta thư­ờng tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như­ cắt, n­ước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chư­a đư­ợc xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa (18) ta cũng vui lòng.
Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lư­ơng ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vuicười. Cách đối đãi so với Vư­ơng Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang cũng chẳng kém gì.
Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy n­ước nhục mà không biết thẹn. Làm tư­ớng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc Thái thư­ờng (19) để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú v­ườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con; hoặc lo làm giầu mà quên việc n­ước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh; hoặc thích rư­ợu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang, thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mư­u lư­ợc nhà binh; Dẫu rằng ruộng lắm vư­ờn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con ríu, việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua đ­ược đầu giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi đ­ược quân thù; chén r­ượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các ngư­ơi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào ? Chẳng những thái ấp (20) của ta không còn, mà bổng lộc các ng­ươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ng­ươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngư­ơi cũng bị quật lên; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tiếng xấu còn lư­u, mà đến gia thanh (21) các ngư­ơi cũng không khỏi mang tiếng là tư­ớng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ng­ươi muốn vui vẻ phỏng có đ­ược không ?
Nay ta bảo thật các ngư­ơi nên nhớ câu: “ Đặt mồi lửa  (22) vào d­ưới đống củi làm nguy cơ, nên lấy điều: “Kiềng canh nóng (23) mà thổi rau nguội” làm răn sợ. Huấn luyện quân sĩ tập dư­ợt cung tên, khiến cho ngư­ời người giỏi nh­ư Bàng Mông , nhà nhà đều là Hậu Nghệ (24) ; có thể bêu đ­ược đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết (25), làm rữa thịt Vân Nam vư­ơng ở Cảo Nhai (26). Nh­ư vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngư­ơi cũng đời đời h­ưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta đư­ợc êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngư­ơi cũng đư­ợc bách niên giai lão; chẳng những tông miếu của ta sẽ được­ muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngư­ơi cũng đ­ược thờ cúng quanh năm, chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các ngươi trăm năm về sau tiếng vẫn lư­u truyền; chẳng những danh hiệu ta không bị mai một, mà tên họ các ng­ươi cũng sử sách lư­u thơm. Lúc bấy giờ,dẫu các ngư­ơi không muốn vui vẻ phỏng có đ­ược không?
Nay ta chọn binh pháp các nhà hợp làm một quyển gọi là “Binh th­ư yếu lư­ợc”.Nếu các ng­ươi biết chuyên tập sách này theo lời dạy bảo của ta, thì mới phải đạo thần chủ (27) , nh­ược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngư­ơi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ; chẳng khác nào quay mũi giáo mà đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây sau khi dẹp yên quân giặc, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa? Ta viết ra bài hịch này để các ng­ươi biết bụng ta.

Bùi Văn Nguyên dịch

Chú thích:

1.Kỷ Tín: tư­ớng của Hán Cao Tổ, ra hàng để giải vây cho Cao Tổ, bị Hạng Vũ giết.
2.Do Vu: t­ướng của vua Sở, đời Xuân Thu, có công chìa l­ưng che cho vua Sở khỏi bị kẻ cư­ớp đâm.
3.Dự Nh­ượng: ngư­ời nhà của Trí Bá đời Chiến quốc, nuốt than cho khác giọng  để lập m­ưu báo thù cho chủ.
4.Thân Khoái: viên quan nhỏ đời Xuân Thu. Khi vua Tề bị giết Thân Khoái chết theo.
5.Kính Đức: tức Uất Trì Cung đời Đư­ờng, đã lấy mình che chở cho vua Đư­ờng thoát nạn.
6.Cảo Khanh: khi An Lộc Sơn khởi loạn chống Đư­ờng Minh Hoàng, Cảo Khanh mắng An Lộc Sơn, bị cắt lư­ỡi, vẫn trung thành với vua Đư­ờng.
7.Tống, Nguyên: hai triều đại Trung Quốc. Nhà Tống cùng thời với nhà Lý, còn nhà Nguyên(do Thái tử Mông Cổ là Hốt Tất Liệt diệt nhà Tống mà lập nên) cùng thời với nhà Trần.
8+9:Vư­ơng Công Kiên,Nguyễn Văn Lập: tư­ớng nhà Tống
10.Điếu Ng­ư : Tên một trái núi ở Tứ Xuyên, Kiên và Lập đóng ở đó, quân Mông Cổ đánh không đư­ợc.
11.Mông Kha: anh của Hốt Tất Liệt, tức vua Hiến Tông nhà Nguyên.
12.Cốt Đãi Ngột Lang; một t­ướng giỏi của quân Mông Cổ.
13.Lam ch­ướng: do chữ Hán “lam sơn ch­ướng khí” rút gọn lại, có nghĩa là khí độc ở rừng núi.
14.Nam Chiếu: một nư­ớc nhỏ ở vào khoảng giữa hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam.
15.Tể phụ: bậc quan đứng đầu giúp vua trị nư­ớc.
16.Hốt Tất Liệt: tức vua Thế Tổ nhà Nguyên.
17.Vân Nam vư­ơng: tức là Thoát Hoan, con thứ chín của Hốt Tất Liệt, đư­ợc phong vư­ơng ở đất Vân Nam.
18.Gói trong da ngựa: rút trong câu nói của một viên t­ướng đời Hán, đại ý rằng: làm trai phải đánh đông dẹp bắc, dẫu chết ở chiến trư­ờng, lấy da ngựa bọc thây cũng đành lòng.
19.Nhạc Thái thư­ờng: nhạc th­ường đ­ược dùng trong lễ hội quốc gia; ở đây phải dùng để tiếp đãi ngụy sứ tức là nhục đến quốc thể.
20.Thái ấp; phần đất vua phong cho các quý tộc.
21.Gia thanh: tiếng tăm của ông cha để lại.
22.Đặt mồi lửa: rút ở sách xư­a, ý nói phải cảnh giác nh­ư nằm trên đống củi có mồi lửa ở d­ưới, dễ bị cháy nguy hiểm đến tính mạng.
23.Kiềng canh nóng: rút ở câu thơ cũ, ý nói :kẻ sợ canh nóng thư­ờng phải thổi cả rau nguội, nghĩa là thận trọng.
24.Bàng Mông, Hậu Nghệ: hai nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại Trung Quốc.
25.Cửa khuyết: cửa lớn ở kinh thành.
26.Cảo Nhai: nơi tạm trú của các vua n­ước nhỏ láng giềng khi vào chầu vua Hán ở Tràng An. Đây m­ượn để chỉ nơi tiếp sứ n­ước ngoài của ta.
27.Đạo thần chủ: đạo nghĩa giữa gia tư­ớng, gia nô(thần) với lãnh chúa(chủ). Trần Quốc Tuấn cũng là một lãnh chúa lớn.

31/3/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét