Hưng Đạo đại vươngTrần Quốc Tuấn
(1228-1300)
Hưng Đạo đại vương Trần Quốc Tuấn là con của An Sinh vương Trần Liễu. Trần Liễu là anh ruột của Trần Cảnh (tức vua Trần Thái Tông). Như vậy Trần Quốc Tuấn gọi vua Trần Thái Tông bằng chú ruột. Trần Quốc Tuấn là người hương Tức Mặc, phủ Thiên Trường (thuộc tỉnh Nam Định ngày nay).
Năm 1237, vì Chiêu Thánh lấy Trần Cảnh đã sau 12 năm và 19 tuổi đời mà vẫn chưa có con, nên theo kế sách của Trần Thủ Độ, vua Trần Thái Tông lấy Thuận Thiên Lý Thị (chị ruột của Chiêu Thánh, vợ của anh ruột là Trần Liễu, đang có mang Quốc Khang ba tháng), lập làm Hòang hậu và giáng Chiêu Thánh xuống làm công chúa. Trần Liễu tức giận bèn họp quân ra ngoài sông Cái làm loạn, nhưng sau yếu thế đành phải xin hàng.
Nhờ có sự che chở của vua Trần Thái Tông nên Trần Liễu được tha tội chết, nhưng quân lính đi theo đều bị giết cả. Sau việc này vua Trần Thái Tông lấy đất ở các xã Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang phong cho Liễu làm đất thang mộc và phong tước An Sinh vương cho Trần Liễu. Nhưng cái hận bị em ruột lấy quyền làm vua cướp mất vợ mình đã đeo đẳng Trần Liễu đến suốt đời. Thấy con trai mình là Trần Quốc Tuấn “dung mạo khôi ngô, thông minh hơn người, đọc khắp các sách, có tài văn võ”, Trần liễu đã đi tìm khắp trong nước những người tài giỏi để dạy cho Quốc Tuấn, với một mục đích sau này sẽ nhờ cậy Quốc Tuấn rửa hận cho mình. Trước khi mất, ông còn cầm tay Quốc Tuấn mà dặn rằng: “Mày mà không vì cha lấy được thiên hạ thì cha chết không nhắm mắt”. Từ khi Trần Liễu về Yên Phụ, Trần Quốc Tuấn được công chúa Thụy Bà (chị ruột Trần Cảnh) nhận làm con nuôi.
Năm 1251, Trần Quốc Tuấn kết hôn với công chúa Thiên Thành, trước lúc cha mất được vài tháng. Có lẽ từ sau khi lập gia đình và cha mất, Trần Quốc Tuấn đã được phong vương và phong đất cho ở hương Vạn Kiếp. Cũng từ đó Trần Quốc Tuấn đã gắn bó suốt đời mình với với mảnh đất này.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ nhất đầu năm 1258), Trần Quốc Tuấn được cử cầm quân trấn giữ biên thùy phía bắc (vùng Đông Bắc). Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai (1285) và thứ ba (1287), ông được phong làm Quốc công Tiết chế thống lĩnh chư quân, là linh hồn của cuộc kháng chiến. Do có công lớn trong hai cuộc kháng chiến chống Nguyên - Mông lần thứ hai và lần thứ ba, năm 1289, Trần Quốc Tuấn được tiến phong là Hưng Đạo Đại vương.
Từ tháng sáu năm Canh Tý (1300), Trần Quốc Tuấn ốm nặng. Đến ngày 20 tháng 8 năm Canh Tý (tức ngày 3 tháng 9 năm 1300) ông trút hơi thở cuối cùng tại Vạn Kiếp.
Theo sử sách, Trần Quốc Tuấn có soạn hai tác phẩm lý luận và nghệ thuật quân sự bằng chữ Hán là Binh gia diệu lý yếu lược (vẫn quen gọi là Binh Thư yếu lược) và Vạn Kiếp tông bí truyền thư. Văn bản gốc của hai tác phẩm này chắc đã thất truyền. Các văn bản còn lại sau này chỉ là các bản sao chép và có bổ sung thêm của các nhà nho triều Nguyễn thế kỷ thứ XIX. Đến nay chỉ còn bài Dụ chư tỳ tướng hịch văn vẫn quen gọi là bài Hịch tướng sĩ. Đây là một áng văn chương chính luận cổ đặc sắc đồng thời cũng là một văn kiện lịch sử vô cùng quan trọng.
Dưới đây là nguyên văn bản dịch của tác phẩm này:
Hịch tướng sĩ
Ta thường nghe Kỷ Tín (1) đem mình chết thay, cứu thoát cho Cao Đế; Do Vu (2) chìa lưng chịu giáo che chở cho Chiêu Vương; Dự Nhượng (3) nuốt than để báo thù cho chủ; Thân Khoái (4) chặt tay cứu nạn cho nước; Kính Đức (5) một chàng tuổi trẻ, thân phò Thái Tông thoát khỏi vòng vây Thế Sung ; Cảo Khanh (6) một bề tôi xa, miệng mắng Lộc Sơn, không theo mưu kế nghịch tặc. Từ xưa các bậc trung thần nghĩa sĩ, bỏ mình vì nước, đời nào không có? Giả sử các bậc đó cứ khư khư, theo thói nữ nhi thường tình, thì cũng chết già ở xó cửa, sao có thể lưu danh sử sách, cùng trời đất muôn đời bất hủ được ?
Các ngươi con nhà võ tướng không hiểu văn nghĩa, nghe những chuyện ấy nửa tin nửa ngờ. Thôi những chuyện xưa ta không nói đến nữa, nay ta chỉ kể chuyện Tống, Nguyên (7) mới đây:
Vương Công Kiên 8 là người thế nào? Tì tướng của ông là Nguyễn Văn Lập (9) lại là người thế nào, mà giữ thành Điếu Ngư (10) nhỏ như cái đấu, đường đường chống với quân Mông Kha (11) đông đến hàng trăm vạn, khiến cho nhân dân đời Tống đến nay còn đội ơn sâu ?
Cốt Đãi Ngột Lang (12) là người thế nào ? Tì tướng của ông là Xích Tu Tư lại là người thế nào, mà xông vào chỗ lam chướng (13) xa xôi nghìn trùng, đánh bại được quân Nam Chiếu (14) trong vài tuần, khiến cho quân tướng đời Nguyên đến nay còn lưu tiếng tốt ?
Huống chi, ta cùng các ngươi sinh ra phải thời loạn lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Ngó thấy sứ giặc đi lại nghênh ngang ngoài đường, uốn lỡi cú diều mà sỉ mắng triều đình, đem thân dê chó mà bắt nạt tể phụ (15) thác mệnh Hốt Tất Liệt (16) mà đòi ngọc lụa, để thỏa lòng tham không cùng, giả hiệu Vân Nam vương (17) mà thu bạc vàng, để vét của kho có hạn. Thật khác nào như đem thịt mà nuôi hổ đói, tránh sao cho khỏi gieo vạ về sau!
Ta thường tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối; ruột đau như cắt, nước mắt đầm đìa; chỉ căm tức chưa được xả thịt lột da, nuốt gan uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa (18) ta cũng vui lòng.
Các ngươi ở cùng ta coi giữ binh quyền đã lâu ngày, không có mặc thì ta cho áo, không có ăn thì ta cho cơm, quan nhỏ thì ta thăng chức, lương ít thì ta cấp bổng, đi thủy thì ta cho thuyền, đi bộ thì ta cho ngựa, lúc trận mạc xông pha thì cùng nhau sống chết, lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vuicười. Cách đối đãi so với Vương Công Kiên, Cốt Đãi Ngột Lang cũng chẳng kém gì.
Nay các ngươi nhìn chủ nhục mà không biết lo, thấy nước nhục mà không biết thẹn. Làm tướng triều đình phải hầu quân giặc mà không biết tức; nghe nhạc Thái thường (19) để đãi yến ngụy sứ mà không biết căm. Hoặc lấy việc chọi gà làm vui đùa, hoặc lấy việc đánh bạc làm tiêu khiển; hoặc vui thú vườn ruộng, hoặc quyến luyến vợ con; hoặc lo làm giầu mà quên việc nước, hoặc ham săn bắn mà quên việc binh; hoặc thích rượu ngon, hoặc mê tiếng hát. Nếu có giặc Mông Thát tràn sang, thì cựa gà trống không thể đâm thủng áo giáp của giặc, mẹo cờ bạc không thể dùng làm mưu lược nhà binh; Dẫu rằng ruộng lắm vườn nhiều, tấm thân quý nghìn vàng khôn chuộc, vả lại vợ bìu con ríu, việc quân cơ trăm sự ích chi; tiền của tuy nhiều không mua được đầu giặc, chó săn tuy khỏe không đuổi được quân thù; chén rượu ngon không thể làm cho giặc say chết, tiếng hát hay không thể làm cho giặc điếc tai. Lúc bấy giờ ta cùng các ngươi sẽ bị bắt, đau xót biết chừng nào ? Chẳng những thái ấp (20) của ta không còn, mà bổng lộc các ngươi cũng mất; chẳng những gia quyến của ta bị tan, mà vợ con các ngươi cũng khốn; chẳng những xã tắc tổ tông ta bị giày xéo, mà phần mộ cha mẹ các ngươi cũng bị quật lên; chẳng những thân ta kiếp này chịu nhục, rồi đến trăm năm sau, tiếng dơ khôn rửa, tiếng xấu còn lưu, mà đến gia thanh (21) các ngươi cũng không khỏi mang tiếng là tướng bại trận. Lúc bấy giờ, dẫu các ngươi muốn vui vẻ phỏng có được không ?
Nay ta bảo thật các ngươi nên nhớ câu: “ Đặt mồi lửa (22) vào dưới đống củi làm nguy cơ, nên lấy điều: “Kiềng canh nóng (23) mà thổi rau nguội” làm răn sợ. Huấn luyện quân sĩ tập dượt cung tên, khiến cho người người giỏi như Bàng Mông , nhà nhà đều là Hậu Nghệ (24) ; có thể bêu được đầu Hốt Tất Liệt ở cửa khuyết (25), làm rữa thịt Vân Nam vương ở Cảo Nhai (26). Như vậy, chẳng những thái ấp của ta mãi mãi vững bền, mà bổng lộc các ngươi cũng đời đời hưởng thụ; chẳng những gia quyến của ta được êm ấm gối chăn, mà vợ con các ngươi cũng được bách niên giai lão; chẳng những tông miếu của ta sẽ được muôn đời tế lễ, mà tổ tông các ngươi cũng được thờ cúng quanh năm, chẳng những thân ta kiếp này đắc chí, mà đến các ngươi trăm năm về sau tiếng vẫn lưu truyền; chẳng những danh hiệu ta không bị mai một, mà tên họ các ngươi cũng sử sách lưu thơm. Lúc bấy giờ,dẫu các ngươi không muốn vui vẻ phỏng có được không?
Nay ta chọn binh pháp các nhà hợp làm một quyển gọi là “Binh thư yếu lược”.Nếu các ngươi biết chuyên tập sách này theo lời dạy bảo của ta, thì mới phải đạo thần chủ (27) , nhược bằng khinh bỏ sách này, trái lời dạy bảo của ta, tức là kẻ nghịch thù.
Vì sao vậy? Giặc với ta là kẻ thù không đội trời chung, các ngươi cứ điềm nhiên không biết rửa nhục, không lo trừ hung, không dạy quân sĩ; chẳng khác nào quay mũi giáo mà đầu hàng, giơ tay không mà chịu thua giặc. Nếu vậy, rồi đây sau khi dẹp yên quân giặc, muôn đời để thẹn, há còn mặt mũi nào đứng trong trời đất nữa? Ta viết ra bài hịch này để các ngươi biết bụng ta.
Bùi Văn Nguyên dịch
Chú thích:
1.Kỷ Tín: tướng của Hán Cao Tổ, ra hàng để giải vây cho Cao Tổ, bị Hạng Vũ giết.
2.Do Vu: tướng của vua Sở, đời Xuân Thu, có công chìa lưng che cho vua Sở khỏi bị kẻ cướp đâm.
3.Dự Nhượng: người nhà của Trí Bá đời Chiến quốc, nuốt than cho khác giọng để lập mưu báo thù cho chủ.
4.Thân Khoái: viên quan nhỏ đời Xuân Thu. Khi vua Tề bị giết Thân Khoái chết theo.
5.Kính Đức: tức Uất Trì Cung đời Đường, đã lấy mình che chở cho vua Đường thoát nạn.
6.Cảo Khanh: khi An Lộc Sơn khởi loạn chống Đường Minh Hoàng, Cảo Khanh mắng An Lộc Sơn, bị cắt lưỡi, vẫn trung thành với vua Đường.
7.Tống, Nguyên: hai triều đại Trung Quốc. Nhà Tống cùng thời với nhà Lý, còn nhà Nguyên(do Thái tử Mông Cổ là Hốt Tất Liệt diệt nhà Tống mà lập nên) cùng thời với nhà Trần.
8+9:Vương Công Kiên,Nguyễn Văn Lập: tướng nhà Tống
10.Điếu Ngư : Tên một trái núi ở Tứ Xuyên, Kiên và Lập đóng ở đó, quân Mông Cổ đánh không được.
11.Mông Kha: anh của Hốt Tất Liệt, tức vua Hiến Tông nhà Nguyên.
12.Cốt Đãi Ngột Lang; một tướng giỏi của quân Mông Cổ.
13.Lam chướng: do chữ Hán “lam sơn chướng khí” rút gọn lại, có nghĩa là khí độc ở rừng núi.
14.Nam Chiếu: một nước nhỏ ở vào khoảng giữa hai tỉnh Tứ Xuyên và Vân Nam.
15.Tể phụ: bậc quan đứng đầu giúp vua trị nước.
16.Hốt Tất Liệt: tức vua Thế Tổ nhà Nguyên.
17.Vân Nam vương: tức là Thoát Hoan, con thứ chín của Hốt Tất Liệt, được phong vương ở đất Vân Nam.
18.Gói trong da ngựa: rút trong câu nói của một viên tướng đời Hán, đại ý rằng: làm trai phải đánh đông dẹp bắc, dẫu chết ở chiến trường, lấy da ngựa bọc thây cũng đành lòng.
19.Nhạc Thái thường: nhạc thường được dùng trong lễ hội quốc gia; ở đây phải dùng để tiếp đãi ngụy sứ tức là nhục đến quốc thể.
20.Thái ấp; phần đất vua phong cho các quý tộc.
21.Gia thanh: tiếng tăm của ông cha để lại.
22.Đặt mồi lửa: rút ở sách xưa, ý nói phải cảnh giác như nằm trên đống củi có mồi lửa ở dưới, dễ bị cháy nguy hiểm đến tính mạng.
23.Kiềng canh nóng: rút ở câu thơ cũ, ý nói :kẻ sợ canh nóng thường phải thổi cả rau nguội, nghĩa là thận trọng.
24.Bàng Mông, Hậu Nghệ: hai nhân vật bắn cung giỏi trong thần thoại Trung Quốc.
25.Cửa khuyết: cửa lớn ở kinh thành.
26.Cảo Nhai: nơi tạm trú của các vua nước nhỏ láng giềng khi vào chầu vua Hán ở Tràng An. Đây mượn để chỉ nơi tiếp sứ nước ngoài của ta.
27.Đạo thần chủ: đạo nghĩa giữa gia tướng, gia nô(thần) với lãnh chúa(chủ). Trần Quốc Tuấn cũng là một lãnh chúa lớn.
31/3/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét