21
用洪洲同尉范公韻
奉呈考試諸公
諸公滾滾在岩廊
士子難窺數仞墻
玉石最宜區辨別
彎鷄忍使並飛翔
得贤董子兴炎漢
黜直劉蕡弱晚唐
天照丁寜容愽取
要先忠讜後詞章
陳元旦
Phiên âm:
Dụng Hồng Châu đồng úy Phạm Công vận
phụng trình khảo thí chư công
Chư công cổn cổn tại nham lang
Sĩ tử nan khuy sổ nhẫn tường
Ngọc thạch tối nghi khu biện biệt
Loan kê nhẫn sử tịnh phi tường
Đắc hiền Đổng Tử hưng viêm Hán
Truất trực Lưu Phần nhược vãn Đường
Thiên chiếu đinh ninh dung bác thủ
Yếu tiên trung đảng hậu từ chương.
Trần Nguyên Đán
Dịch nghĩa:
Dung vần thơ của quan đồng úy Hồng Châu Phạm Công
để đưa trình các ông đang chấm thi
Trong nhà cao các ông tất bật
Sĩ tử khó lòng dòm qua được bức tường cao mấy nhẫn
Ngọc hay đá phải phân biệt cho rõ
Đừng để phượng với gà bay chung với nhau
Được người hiền như Đổng Tử làm hưng thịnh nhà Hán
Truất người trung trực như Lưu Phần làm cho suy yếu nhà Đường
Chiếu vua cặn kẽ cho phép lấy rộng
Trước hãy xem phần trung chính sau hãy xét đến văn chương.
Dịch thơ:
1.
Hiên cao tấp nập gót chư công
Sĩ tử khôn nom vách mấy trùng
Ngọc đá đáng đem phân biệt rõ
Phượng gà há để lượn bay chung
Hán lên Đổng Tử từng đăng dụng
Đường xuống Lưu Phần chẳng thụ dung
Chiếu dụ ân cần cho lấy rộng
Văn sau trước hết phải lòng trung.
Đào Phương Bình dịch
2.
Tấp nập các quan trong chấm thi
Cách tường sĩ tử khó nhòm chi
Sang hèn ngọc đá cần phân vẻ
Cao thấp phượng gà phải cách ly
Đổng Tử được dùng nhà Hán thịnh
Lưu Phần bỏ thẳng vãn Đường suy
Vua cho lấy rộng từng căn dặn
Trung trước văn sau hãy gắng tùy.
Đỗ Đình Tuân dịch
22.
送龍岩歸演州
白頭自笑涴塵衣
寂寞煙波舊钓磯
栢府法官憐我老
來庭晝錦羨君歸
交情冷淡看青眼
詩思高深念翠微
好去莫辭風浪險
故園松菊不危機
陳元旦
Phiên âm:
Tống Long Nham quy Diễn Châu
Bạch đầu tự tiếu uyển trần y
Tịch mịch yên ba cựu điếu ky
Bách phủ pháp quan lien ngã lão
Lai đình trú cẩm tiện quân quy
Giao tình lãnh đạm khan thanh nhãn
Thi tứ cao thâm niệm thúy vi
Hảo khứ mạc từ phong lãng hiểm
Cố viên tùng cúc bất nguy ky (cơ).
Trần Nguyên Đán
Dịch nghĩa:
Tiền Long Nham về Diễn Châu
Tự cười mình bạc đầu rồi áo vẫn nhuốm bụi
Để cho nơi bến câu cũ song nước phải vằng vẻ
Thương cho ta đã già mà còn làm pháp quan nơi Bách phủ
Thèm cảnh ông được mặc áo gấm về trước sân Lai
Giao tình thanh đạm lấy mắt xanh nhìn nhau
Tứ thơ cao sâu cảm hứng trước dãy núi biếc
Hãy đi quách đừng nề sóng gió hiểm nghèo
Tùng và cúc ở nơi vườn cũ không phải là mối nguy cơ.
Dịch thơ:
Cười mình vướng bụi trần ai
Bến câu bỏ vắng không người lại qua
Pháp quan Bách phủ đến già
Thèm như ông được về nhà nay mai
Mắt xanh thanh đạm nhìn người
Câu thơ khởi hứng núi đồi biếc xa
Về đi chớ ngại phong ba
Cúc tùng vườn cũ quê nhà đợi mong.
Đỗ Đình Tuân dịch
23.
紅菊花
歲寒暫解病顏愁
萬朶卿雲煙素秋
彭澤酒香琼斝泛
南陽泉洌絳霜流
芳心艷色天然異
晚節嬌姿物態尤
醉把莫嫌腮颊赤
忍堪佳節不相酬
陳元旦
Phiên âm:
Hồng cúc hoa
Tuế hàn tiệm giải bệnh nhan sầu
Vạn đóa khanh vân yên tố thu
Nam dương tuyền liệt giáng sương lưu
Phương tâm diệm sắc thiên nhiên dị
Vãn tiết kiều tư vật thái vưu
Túy bả mạc hiềm tai giáp xích
Nhẫn kham giai tiết bất tương thù.
Trần Nguyên Đán
Dịch nghĩa:
Hoa cúc đỏ
Mùa lạnh đến tạm giải nét sầu trên mặt người bệnh
Muôn đám mây lành khí thu trong sáng
Rượu thơm Bành Trạch rót vào chén ngọc quỳnh
Suối mát Nam Dương chảy ra dòng sương đỏ
Hương thơm sắc đẹp hoa này trong thiên nhiên ít có
Cuối mùa mà vẻ óng ả thật sắc thái của vật lạ
Rượu say cầm hoa chẳng hề đỏ mặt
Tiết đẹp lẽ nào không thù tiếp nhau.
Dịch thơ:
Thu sang cúc giải nét sầu bi
Ngàn đóa mây lành tươi thắm ghê
Bành Trạch rượu thơm đầy chén ngọc
Nam Dương suối đỏ mát lòng khe
Hương thơm sắc đẹp đâu người sánh
Dáng lạ vẻ thanh mấy kẻ bì
Say rượu cầm hoa không đỏ mặt
Lẽ nào tiết đẹp chẳng nâng ly.
Đỗ Đình Tuân dịch
24.
正肅王家宴蓆上
賦梅詩次介軒僕射韻
皽鱗硬骨別南陽
氐事先春冠眾芳
一點檀心藏妙理
千葩雪艷入時粧
黃垂宓雨煙光好
綠漲薰風趣味香
掃却襟懷塵萬斛
年來鐵石作心腸
陳元旦
Phiên âm:
Chính túc vương gia yến tịch thượng
phú mai thi thứ Giới Hiên bộc xạ vận
Cổ lân ngạnh cốt biệt Nam Dương
Để sự tiên xuân quán chúng phương
Nhất điểm đàn tâm tang diệu lý
Thiên ba tuyết diệm nhập thời trang
Hoàng thùy mật vũ yên quang hảo
Lục trướng huân phong thú vị hương
Tảo khước tâm hòa trần vạn hộc
Niên lai thiết thạch tác tâm trường.
Trần Nguyên Đán
Dịch nghĩa:
Trên tiệc rượu ở nhà Chính Túc vương
làm thơ vịnh mai họa vần thơ của quan bộc xạ là Giới Hiên
Vẩy gầy xương cứng riêng tự Nam Dương
Vốn nó nở trước mùa xuân đứng trùm lên các loài hoa
Một điểm nhị thơm ẩn cái lẽ huyền diệu
Ngàn bong tuyết đẹp càng hợp với thời trang
Mầu vàng rủ xuống mưa dầy khói mây đẹp đẽ
Màu biếc nổi lên trong gió ấm thú vị thơm tho
Quét sạch muôn hộc bui trong lòng
Gần đây lòng dạ đã thành sắt đá.
Dịch thơ:
Vẩy gầy xương cứng tự Nam Dương
Nở trước mùa xuân đẹp khác thường
Một điểm nhụy thơm điều mật diệu
Ngàn bông tuyết trắng nét tân trang
Mưa vàng rủ xuống tươi lặng lẽ
Gió ấm mầu lên nức dịu dàng
Quét sạch lòng trần muôn vạn hộc
Bấy lâu như thể đá cùng gang.
Đỗ Đình Tuân dịch
25.
送平西都督莊定大王
奉詔征占城
虯鬚杖鉞海西陲
一痣闍槃指日犁
貔虎三軍烏獲壯
風雷八陣率然奇
東平威望人皆服
上宰勲名世共推
震厲王庭哥凱奏
老夫述頌繼淮碑
陳元旦
Phiên âm:
Tống bình tây đô đốc Trang Định đại vương
phụng chiếu chinh Chiêm thành
Cù tu trượng việt hải tây thùy
Nhất chí Đồ Bàn chỉ nhật ly
Tỳ hổ tam quân Ô Hoạch tráng
Phong lôi bát trận xuất nhiên kỳ
Đông Bình uy vọng nhân giai phục
Thượng tể huân danh thế cộng suy
Chấn lệ cương đình ca khải tấu
Lão phu thuật tụng kế hoài bi
Trần Nguyên Đán
Dịch nghĩa:
Tiễn bình tây đô đốc Trang Định đại vương
phụng chiếu chinh Chiêm Thành
Râu quăn tay cầm lưỡi việt nhằm biên giới phía tây biển
Thành Đồ Bàn như cái nốt ruồi nay mai sẽ bị cày đi
Ba quân hùm sói mạnh như lực sĩ Ô Hoạch
Bát trận sấm gió kỳ lạ tựa rắn Suất nhiên
Oai vọng của Đông Bình người người đều phục
Tiếng tăm bậc tể tướngđời đời suy tôn
Sấm ran trước sân vua tâu bài ca khải hoàn
Già này làm bài tụng nối theo văn bia Bình Hoài.
Dịch thơ:
Râu quăn vác việt nhắm tây thùy
Nốt mụn Đồ Bàn sẽ nhổ đi
Hùm sói ba quân Ô Hoạch mạnh
Sấm mưa bát trận Suất nhiên kỳ
Đông Bình oai vọng người người phục
Tể tưởng công thành mãi mãi ghi
Sấm động sân vua lừng trống trận
Già này nối bút viết văn bia.
Đỗ Đình Tuân dịch
19/3/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét