Nguyễn Phong
(1540-1623)
Nguyễn Phong là người xã Kiệt Đặc, tự là Tuyết Đường, hiệu là Thiềm Tấu. Ông tổ của ông được phong là Từ Quảng hầu. Người cha của ông đỗ hương cống, được tặng phong chức thái bảo, sinh được 3 con trai, Nguyễn Phong là người con thứ hai.
Ông thông minh từ nhỏ. Lúc 4 tuổi nghe anh đọc sách đã tỏ ra ham thích. Người cha thấy vậy đã lấy sách của người anh cho em đọc; lên 6 tuổi đã dậy cho âm luật làm văn; lên 7 tuổi đã biết làm văn. Năm 14 tuổi thi một lần đỗ hương cống, cùng khoa với cha nhưng tên ông còn được ghi ở trên tên cha. Ngày vào ăn yến, ông đứng mà không dám ngồi. Quan trường thấy lạ hỏi, ông đem sự thực trình bày, được quan trường cho đổi chỗ, lúc đó ông mới dám ngồi dự. Cử chỉ này của ông được người đời rất khen ngợi. Đến tuổi trưởng thành ông rất thích dạo chơi non nước, không có ngọn núi nào ở trong vùng là không có dấu chân ông.
Năm 28 tuổi, ông đỗ Tiến sĩ khoa Mậu Thìn, niên hiệu Thuần Phúc năm thứ 7(1568) triều Mạc, lại trúng hạng ưu ở Điện Đông các. Đại Việt sử ký toàn thư ghi cụ thể về kỳ thi này như sau: "Mùa xuân, họ Mạc mở khoa thi Hội, cho Vũ Hữu Chỉnh đỗ tiến sĩ cập đệ, bọn Đỗ An 4 người đỗ tiến sĩ xuất thân, bọn Giáp Phong 12 người đỗ đồng tiến sĩ xuất thân”. Ông làm quan cho nhà Mạc đến chức Lại bộ thượng thư, Tả thị lang, được phong tước Phúc Gián bá.
Khi nhà Mạc mất (1592), ông cùng với ông Nghiêm Sơn hầu Nguyễn Doãn Khâm (người cùng làng) vào núi Huyền Đinh, phá gai góc làm nhà ở đó. Hai ông thường xướng họa thơ Đường với nhau được rất nhiều tập, nhưng đều thất truyền.
Sau đó, ông được quan Thái tể là Nguyễn Thực tiến lên vua; Vua cho người đến núi vời ông về kinh, bất đắc dĩ ông phải về theo. Bạn ông là Nguyễn Doãn Khâm thì lấy búa tự bổ vỡ đầu gối cáo bệnh không ra. Nhà Lê thấy ông là người văn học lại cho nguyên chức cũ. Về sau ông được cử ra cửa quan để đón tiếp sứ thần. Lúc tuổi già ông xin về hưu mở gánh hát chèo làm vui. Sau đây là mấy bài thơ còn lại của ông:
愛山
吾何愛愛唯山
不遠烟霞遠世間
举目有天云五色
擡頭满地草花閒
梅嘲曉雪知春暖
柏立冬风楙歲寒
雷雨不迷填海志
葉舟嚀待汎長瀾
Phiên âm:
Aí Sơn
Ngô hà ái, ái duy san,
Bất viễn yên hà viễn thế gian.
Cử mục hữu thiên vân ngũ sắc,
Đài đầu mãn địa thảo hoa nhàn.
Mai trào hiểu tuyết tri xuân noãn,
Bách lập đông phong mậu tuế hàn.
Lôi vũ bất mê điền hải chí,
Diệp chu ninh đãi phiếm trường lan.
Dịch nghiã:
Yêu núi
Ta yêu gì chỉ yêu núi thôi,
Không xa mây khói mà xa cõi đời.
Ngẩng mặt nhìn trời có mây năm sắc,
Ngoái đầu trông đất đầy cỏ hoa tươi.
Thấy mai cười tuyết sớm biết mùa xuân ấm áp,
Cây thông đứng trước gió mùa đông lạnh mà vẫn tươi tốt
Dù cho sấm mưa không quên chí lấp biển
Chiếc thuyền con còn đợi gì mà không lênh đênh giữa sóng cả.
Dịch thơ:
1.
Ta yêu gì? Chỉ yêu núi thôi,
Chẳng xa mây khói chỉ xa đời.
Nhìn trời mấy lớp mây năm sắc,
Ngắm đất đầy hoa cỏ biếc phơi.
Tuyết sáng mai cười xuân biết ấm,
Gió đông thông đứng lạnh càng tươi.
Sấm mưa lấp biển lòng không chuyển,
Những giục thuyền con lướt dặm khơi.
Xuân An dịch
2.
Ta yêu gì ? Chỉ yêu núi đây
Xa cõi đời nhưng gần khói mây
Ngửa mặt nhìn trời mây thắm sắc
Cúi đầu ngắm đất cỏ hoa đầy
Mai cười tuyết sáng hay xuân ấm
Bách trước gió hàn rõ dáng ngay
Lấp biển chí trai lòng chẳng đổi
Sấm mưa thêm giục cánh buồm bay.
Đỗ Đình Tuân dịch
寓興
一湖山水一毛菴
草木漁龍一二三
天下有天春不老
囱前尙記講河南
Phiên âm
Ngụ hứng
Nhất hồ sơn thủy nhất mao am,
Thảo mộc ngư long nhất nhị tam.
Thiên hạ hữu thiên xuân bất lão,
Song tiền thượng ký giảng Hà Nam.
Dịch nghĩa:
Ngụ hứng
Một lều non nước một nhà tranh,
Có một vài thứ cỏ cây rồng cá.
Dưới trời lại có trời tuổi xuân không già,
Trước cửa sổ còn nhớ ông Trình đi giảng ở Hà Nam.
Dịch thơ:
1.
Một mái nhà tranh giữa núi sông,
Vài ba cây cỏ cá tôm rồng.
Hãy còn trời đất còn xuân mãi
Xưa giảng Hà Nam nhớ có ông.
Xuân An dịch
2.
Non nước một hồ, một mái tranh
Vài ba cây cỏ cá rồng quanh
Dưới trời lại có trời xuân mãi
Trước cửa thường khi lại nhớ Trình (?).
Đỗ Đình Tuân dịch
13/3/2012
Đỗ Đình Tuân
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét