Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Chủ Nhật, 18 tháng 3, 2012

Tác giả cổ ở Chí Linh (5)




                                    Chu Văn An
                               (1292-1370)

               Chu Văn An, hiệu là Tiều ẩn, người làng Quang Liệt huyện Thanh Đàm - nay là Thanh Trì-Hà Nội. Ông vốn là một nhà nho có tiết tháo và không ham danh lợi. Sau khi đỗ tiến sĩ, ông không ra làm quan mà về quê mở trường dạy học. Học trò theo học rất đông và ông trở thành một nhà giáo nổi tiếng đương thời.
               Đến thời vua Trần Minh Tông, biết tiếng ông mới vời ra cho giữ chức Quốc tử giám tư nghiệp. Suốt thời Minh Tông, rồi Hiến Tông và nửa đầu thời Dụ Tông, ông đã dành nhiều tâm huyết và dày công nghiên cứu mở mang đạo học ở nước ta. Một người đương thời là Trần Nguyên Đán đã có những câu thơ ca ngợi công lao và sức học uyên bác của Chu Văn An như sau:
               Cùng kinh bác sử công phu đại
               Kính lão sùng nho chính hóa tân.
               (Đọc khắp kinh sử công phu rất to lớn. Kính đạo lão, sùng đạo nho, thực sự đổi mới nền giáo hóa)
               Từ khi Thượng hoàng Minh Tông mất (1357), vua Dụ Tông không còn người kìm giữ, đã lao sâu vào con đường sa đọa. Bọn gian thần đã nhân cơ hội này kết bè kết đảng thả sức tác oai tác quái. Trước tình hình ấy, Chu Văn An đã dâng “Thất Trảm sớ” lên nhà vua đòi chém đầu bẩy tên gian thần khét tiếng đương thời. Nhưng vua Dụ Tông không nghe, ông bèn treo mũ từ quan về ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương.
               Cuối năm 1370, Chu Văn An mất tại nhà riêng trên núi Phượng Hoàng và được Vua Trần Nghệ Tông phong tước thụy là Văn Trinh Công.  Sau đó lại có mệnh cho phối thờ trong Văn Miếu.
               Chu Văn An để lại các tác phẩm: Tứ Thư thuyết ước, Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Thất trảm sớ…nhưng đều thất truyền. Nay chỉ còn lại 11 bài thơ chữ Hán được chép trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn và Phượng Sơn từ chí lược của Nguyễn Thu. Sau đây chúng tôi xin chọn giới thiệu một số bài.

灵山雜兴

萬曡青山簇
斜暘倒掛半溪明
翠蘿經裏無人到
山鵲啼煙時一聲

Phiên âm:

Linh sơn tạp hứng

Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình,
Tà dương đạm mạt bán khê minh.
Thúy la kinh lý vô nhân đáo,
Sơn thước đề yên thời nhất thanh.

Dịch nghĩa:

Tạp hứng ở núi Chí Linh

Lớp lớp núi xanh nhô lên như bức tranh vẽ,
Nắng chiều vàng nhạt chiếu sáng nửa lòng khe.
Trong lối cỏ biếc không có bóng người đến,
Thỉnh thoảng tiếng chim sơn thước kêu trong khói mù.

Dịch thơ:

Núi xa lớp lớp như tranh,
Con đường cỏ rậm vắng tanh bóng người.
Nắng chiều nhạt nửa khe soi,
Tiếng chim trong khói cất rồi… lại im.
                                                Đỗ Đình Tuân dịch

村南山小憩

閒身南北片雲輕
半枕輕風外世情
佛介清幽塵介遠        
庭前噴血一鶯鸣

Phiên âm:

Thôn nam sơn tiểu khệ

Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh,
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình.
Phật giới thanh u trần giới viễn,
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh.

Dịch nghĩa:

Tạm nghỉ ở thôn nam núi

Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp nam bắc,
Gió mát để bên gối tâm tình để ngoài cuộc đời.
Cõi Phật thanh u, cõi trần xa vời,
Trước sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh kêu.                                                                                                              
Dịch thơ:

Thân nhàn tựa áng mây trôi,
Gió trăng nửa gối, cuộc đời nhẹ tênh.
Cõi trần xa, cõi phật thanh,
Sân hoa máu đỏ, chim oanh líu lường.
                                    Đào Thái Tôn dịch

青梁江

山腰一末夕暘橫
两两漁舟伴岸行
獨立青梁江上望
寒風颯颯怒潮生

Phiên âm:

Thanh Lương giang 
                                               
Sơn yêu nhất mạt tịch dương hoành,
Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành.
Độc lập Thanh Lương giang thượng vọng,
Hàn phong táp táp nộ triều sinh.

Dịch nghĩa:

Sông Thanh Lương  1

Một vệt nắng chiều vắt ngang sườn núi,
Dọc theo bờ sông thuyền câu đi từng đôi một.    
Một mình đứng trên bờ sông Thanh Lương ngắm cảnh,
Gió lạnh vi vút, nước triều dâng lên.

Dịch thơ:

Sườn non vệt nắng vắt ngang,
Trên sông xuôi mái đôi hàng thuyền câu.
Một mình ngắm cảnh giờ lâu,
Vi vu gió lạnh dòng sâu dậy triều.
                                                Đỗ Đình Tuân dịch

春旦

寂寞山家鎭日閒
竹屝斜擁护輕寒
碧迷雲色天如
紅濕花梢露未乾
身與孤雲長戀岫
心同古井不生澜
栢薰半冷茶湮歇
溪鳥一聲春夢残

Phiên âm:

Xuân Đán

Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn,
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
Bích mê vân sắc thiên như túy;
Hồng thấp hoa sao lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ;
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
Bách huân bán lãnh trà yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.

Dịch nghĩa:

Buổi sáng mùa xuân  
                                  
Nhà trên núi vắng vẻ suốt ngày thảnh thơi,
Cánh cửa phên che nghiêng ngăn cái rét nhẹ.
Mầu biếc át cả sắc mây, trời như say;
Ánh hồng thấm vào nhành hoa, sương sớm chưa khô.
Thân ta cùng đám mây cô đơn mãi mãi 
                                                        lưu luyến hốc núi;
Trong lòng giống như mặt giếng cổ chẳng hề gợn sóng.
Mùi khói thông sắp hết, khói trà đã tắt,
Một tiếng chim bên suối làm tỉnh mộng xuân.

Dịch thơ:

Trên non nhà vắng ngày nhàn,
Phên nghiêng ngăn ngọn gió hàn nhẹ bay.
Ngút ngàn cỏ biếc trời say,
Cánh hoa thấm ánh hồng lay trước vườn.
Thân như mây bện sườn non,
Lòng như giếng cổ không còn sóng lan.
Khói thông vãn, khói trà tan,
Tiếng chim bên suối kêu tàn mộng xuân.                                   
                                                Đỗ Đình Tuân dịch

鼈池

水月桥遍弄夕暉
菏花菏葉静相依
魚浮古沼龍何在
雲满空山鶴不歸
老桂随風香石路
嫩苔著水沒松屝
丹心殊未如灰土
聞說先皇淚暗揮

Phiên âm:

Miết trì  2
                            
Thủy nguyệt kiều biên lộng tịch huy,
Hà hoa hà diệp tĩnh tương y.
Ngư phù cổ chiếu long hà tại?
Vân mãn không sơn hạc bất quy.
Lão quế tùy phong hương thạch lộ;
Nộn đài trước thủy nộn tùng phi.
Thốn tâm thù vị như hôi thổ,
Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy.

Dịch nghĩa:

Ao ba ba

Trăng nước bên cầu đùa giỡn bóng chiều hôm,
Hoa sen lá sen yên lặng tựa vào nhau.
Cá bơi ao cổ rồng ở chốn nào?
Mây đầy núi vắng hạc chẳng thấy về.
Cây quế già  đưa hương bay theo gió 
                              làm thơm ngát con đường đá;
Rêu non đẫm nước che lấp cánh cửa thông.
Tấm lòng này hẳn chưa nguội lạnh như tro đất,
Nghe nói đến tiên hoàng luống gạt thầm giọt lệ.

Dịch thơ:

Trăng nước như nô giỡn nắng tà,
Im lìm sen lá tựa sen hoa.
Cá bơi ao cổ rồng đâu tá?
Mây phủ non không hạc vắng nhà.
Cây quế già thơm đường đá ngát;
Đám rêu non phủ cửa thông nhòa.
Tấc lòng chưa nguội như tro đất,
Nhắc đến Tiên Hoàng lệ ứa sa.
                        Đỗ Đình Tuân dịch

初夏

山宇晝夢回
微涼一線起庭
燕寻壘相將去
蟬咽新聲断
水溪蓮無俗
出篱野筍不凡材
棲梧静極還成懶
上残書風自開

Phiên âm:

Sơ hạ

Sơn vũ tiêu tiêu trú mộng hồi,
Vi lương nhất tuyến khởi đình hòe.
Yến tầm cổ lũy tương tương khứ ;
Thiền yết tân thanh đoạn tục lai.
Điểm thủy khê liên vô tục thái ;
Xuất ly dã duẩn bất phàm tài.
Thê ngô tĩnh cực hoàn thành lãn,
Án thượng tàn thư phong tự khai.

Dịch nghĩa:

Đầu mùa hạ

Nhà trên núi vắng vẻ vừa tỉnh giấc mộng ban ngày,

Một làn gió mát nhẹ thổi vào cây hòe trước sân.
Chim én rủ nhau đi tìm tổ cũ ;
Ve sầu cất tiếng đầu mùa lục tục bay về.
Sen dưới suối điểm trên mặt nước 
                                  không bợn chút phàm tục;
Măng đồng nội tròi ra ngoài dậu chẳng phải
                                            khí tiết tầm thường.
Phượng hoàng đậu cành ngô lặng lẽ quá 
                                           đến thành lười nhác,
Cuốn sách nát để trên án, gió tự mở ra.

Dịch thơ:

      Nhà non vừa tỉnh giấc ngày,
      Trước sân gió mát thổi lay cành hòe.
      Én tìm tổ cũ bay đi,
      Ve kêu mùa mới đã về râm ran.
      Sen khe không bợn chút phàm,
      Măng vươn ngoài nội ngang tàng thẳng ngay.
      Phượng hoàng lặng lẽ cành cây,
      Trên yên sách nát gió vầy mở xem.
                                       Đỗ Đình Tuân dịch

            Chú thích:
         1. Sông Thanh Lương: đoạn sông Kinh Thày làm huyện giới giữa hai huyện Chí Kinh và Kinh Môn .
               2. Miết trì: một ao nuôi thả ba ba ở trong vùng, nay không còn.

17/3/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét