Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Sáu, 5 tháng 7, 2013

ĐỌC THƠ NGUYỄN PHI KHANH ( Tiếp theo và hết )

Tháng 4 năm Kỷ Mão (1399), Hồ Quý Ly ép vua Thuận Tôn (con út của Nghệ hoàng, con rể của Quý Ly) phải xuất gia theo đạo giáo ở quán Ngọc Thanh, thôn Đạm Thủy (Đông Triều). Cho Nguyễn Cẩn đi theo trông nom. Nguyễn Cẩn tiến thuốc độc cho vua nhưng không chết. Sau đó Nguyễn Cẩn chỉ tiến nước dừa mà không cho ăn. Vua cũng không chết. Phạm Khả Vĩnh phải đem vua ra thắt cổ mới chết. Quý Ly lập con trưởng của Thuận Tôn (cháu ngoại của Quý Ly) là hoàng tử An lên ngôi, Quý Ly làm phụ chính. Sau sự kiện này nhiều người muốn giết Quý Ly, nhưng mưu sự không thành đều bị Quý Ly đem giết: “ cộng hơn 370 người…tịch thu gia sản, con gái bắt làm tì, con trai từ 1 tuổi trở lên hoặc chôn sống, hoặc dìm nước. Lùng bắt dư đảng đến mấy năm không thôi” (ĐVSKTT)
Tháng 6 năm ấy Quý Ly xưng là Quốc tổ chương hoàng đế. Cho con cả là Nguyên Trừng làm tư đồ (tể tướng). Ngày 28 tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Quý Ly ép vua (Thiếu Đế) nhường ngôi và bắt người tôn thất và các quan ba lần dâng biểu khuyến tiến. Quý Ly giả cách cố từ chối nói: “Ta sắp chết đến nơi, còn mặt mũi nào trông thấy tiên đế dưới đất nữa?”. Rồi tự lập làm đế, đặt niên hiệu là Thánh Nguyên, Quốc hiệu là Đại Ngu, đổi họ từ Lê sang họ Hồ vốn là họ gốc của Quý Ly. Phế vua xuống làm Bảo Ninh đại vương (vì là cháu ngoại nên không giết). Quý Ly vốn có ý nhường ngôi cho Hán Thương từ trước, nhưng còn e ngại ý của con trai cả Nguyên Trừng. Một hôm lấy cái nghiên đá làm đề tài, Quý Ly ra một vế đối bắt Nguyên Trừng đối lại:
Thử nhất quyền kỳ thạch, hữu thì vi vân vi vũ dĩ nhuận sinh dân;
(Hòn đá bằng nắm tay này, có khi làm mây làm mưa để thấm nhuần nhân dân)
Nguyên Trừng hiểu thâm  ý cha bèn đối lại rằng:
Giá tam thốn tiểu tùng, tha nhật tác đống tác lương dĩ phù xã tắc.
(Cây thông nhỏ ba tấc ấy, sau này làm rường làm cột để chống đỡ xã tắc).  
Tháng 12 năm ấy, Quý Ly nhường ngôi cho Hán Thương, tự xưng là thái thượng hoàng, cùng coi chính sự.
 Mùa đồng, tháng 12 năm Tân Tỵ (1401), Hán Thương lấy Nguyễn Phi Khanh làm hàn lâm học sỹ. Từ đây “con rồng ẩn” (Ứng Long) mới thành “con rồng bay” (Phi Khanh). Thế là tưởng đã yên sống với người vợ thứ Nhữ Thị Kham, chuyên cần dạy học, nuôi con, Nguyễn Phi Khanh lại mũ áo ra làm quan nhà Hồ.
Bước vào cuộc đời làm quan, ông tỏ ra là một viên quan rất tận tụy vì việc nước:
Chịu sao được tiếng trượng phu hèn
Vạt áo chia ly khô lệ hoen
Kiến Lĩnh bóng chìm tìm quán trọ
Trường Châu tuyết ráo dặm đường lên
Sâu xa đạo ấy đời đâu bỏ
Đơn độc thân này nước chẳng quên
Gắng gỏi chút công phò nước thịnh
Dù xa khó mấy nguyện gan bền.
(Bài 39: Đường khách)
Ông dùng thơ để khích lệ bầu bạn đi dẹp giặc ở phương xa:
Trốn tội giặc Chiêm cá tại nồi
Thần dân bốn biển thảy căm rồi
Trăm năm còn đó quân man rợ
Tấc lưỡi đem đi đánh giặc Mòi
Ngựa sắt giáo vàng săn ngạc mập
Cờ sao hịch vũ đuổi trâu voi
Oai vua thoáng quét miền xa sạch
Việc lớn nhà nho gánh lấy thôi.
(Bài 27: Tiễn quan kinh sư doãn họ Nguyễn đi nhậm chức
                      hành doanh chiêu thảo sứ)
Bản thân ông cũng đôn đáo phải đi công cán ở nhiều nơi trong nước. Khi thì đi an dân ở Trường An và Vũ Lâm ( Ninh Bình, Thanh Hóa):
Phụ lão tâm tòng ơn Hán chỉ
Vũ phu khóc cảm chiếu Đường ban
Thẹn mình chút đỉnh ơn chưa báo
Nêu đức vua nhà nguyện giữ an.
(Bài 21: Phụng chiếu đi Trường An)
Khi thì phải cưỡi thuyền ra biển giữa mùa sóng dữ:
Cuồng nộ mù phun trước cửa thuyền
Tháng tư sóng dậy đổ như điên
Trên bờ cây vẫy như cờ phất
Ngoài bãi ầm ào chẳng lúc yên…
(Bài 30: Từ phủ Thiên Trường ra cửa biển)
Khi thì phải lên tận miền ngược để lo việc quân lương:
Tộc lẫn Mán Mường dân thái cổ
Đất quen cánh gié lúa bời bời
Trong rừng “hà hổ” không qua lại
Trên ấy “mộc ngư” cũng có rồi
Thời hạn lệnh vua quân việc gấp
Xin đừng chè rượu kẻo lôi thôi.
(Bài 46: Bãi biệt quận phó Nguyễn Viêm)
Nhưng cuộc đời làm quan của Nguyễn Phi Khanh thật ngắn ngủi.  Bởi
bắt đầu từ tháng 4 năm Bính Tuất (1406), nước Minh đã sai Chinh Nam tướng quân Hàn Quan và Tham tướng đô đốc Hoàng Trung, cùng 10 vạn quân, dẫn Trần Thiêm Bình về nước, tiến đánh Đại Ngu. Chúng đánh vào Đáp Cầu. Quân Nguyên Trừng bị thua. Nguyên Trừng nhảy lên bờ xuýt bị vây. Tả thánh dực quân là Hồ Vấn ụp đến đánh. Quân Minh thua chạy. Hoàng Trung liệu không địch nổi đem quân rút về, bị Hồ Xạ và Trần Đình chặn ở Chi Lăng. Quân Minh sai Cao Cảnh Chiến dâng thư hàng và giao nộp Trần Thiêm Bình cho quân Hồ. Trần Thiêm Bình bị sử chém.
Tháng 7 năm Bính Tuất (1406), nước Minh sai Tân Thành hầu Trương Phụ cùng Huỳnh Dương bá Trần Húc đem 40 vạn quân tiến vào Pha Lũy (tức cửa Nam Quan); Tây Bình hầu Mộc Thạnh cùng Phong Thành hầu Lý Bân cũng đem 40 vạn quân tiến vào cửa ải Phú Lệnh ( tức Hà Giang) đào núi, đẵn cây mở đường để tiến quân. Tháng 11 thì hai đạo quân gồm 80 vạn binh này họp nhau ở Bạch Hạc. Chúng đóng cả ở bờ bắc sông Cái.
Ngày 2 tháng 12 chúng lấy được Việt Trì.
Ngày 7 tháng 12 Trần Đĩnh đánh thắng quân Minh ở bờ bắc. Tướng Minh đem những người nào chạy lùi ra chém. Từ đó quân Minh đều cố sức liều chết, tự nguyện lập công.
Ngày 9 tháng 12 quân Minh đánh úp quân Hồ ở bãi Mộc Hoàn ở phía bắc sông Cái gần Bạch Hạc. Tướng Hồ là Nguyễn Công Khôi đang mải vui chơi nữ sắc, không chuẩn bị. Quân Hồ bị diệt gọn. Quân Minh cho bắc cầu  qua sông.
Ngày 12 tháng 12, Trương Phụ, Hoàng Trung, Thái Phúc đánh vào phía tây bắc thành Đa Bang; Mộc Thạnh, Trần Tuấn đánh phía đông nam thành. Xác chết cao ngang thành mà quân Minh vẫn tiến đánh, không ai dám rút lui. Nguyễn Tông Đỗ đục tường cho voi ra đánh. Người minh cho bắn tên lửa làm voi lùi cả lại. Quân Minh tiến theo voi vào lấy được thành. Các cánh quân trên toàn phòng tuyến đều tan vỡ, vội co cụm về giữ Hoàng Giang. Quân Minh vào Đông Đô, tích trữ lương thực, chiêu tập dân xiêu tán, đặt quan cai trị tính kế lâu dài. Rồi chúng tìm con gái, thiến hoạn con trai, thu vét tiền đồng đưa về Kim Lăng.
Ngày 20 tháng 2 năm Đinh Hợi (1407), tả tướng quốc Nguyên Trừng đánh nhau với quân Minh bị thua phải rút về giữ các cửa biển ở vùng Thái Bình, Nam Định. Quân Hồ, quân Minh cầm cự nhau ở vùng này. Vì nắng mưa sinh ra ốm đau , lại bùn lấy ẩm ướt khó ở, quân Minh rút về đóng ở Hàm Tử.
Ngày 30 tháng 3, Hồ Nguyên Trừng tập trung 7 vạn quân, nói tăng lên thành 21 vạn, tấn công Hàm Tử. Quân Minh chia hai đường Thủy bộ đánh lại. Quân Hồ lại thua. Quý Ly, Hán Thương chạy vào Thanh Hóa.
Ngày 1 tháng 4, nhà Minh xuống chiếu tìm con cháu nhà Trần lập làm quốc vương. Mọi người nói con cháu nhà Trần đều bị giết cả, không còn ai nối dõi. Nhà Minh bèn đặt ba ty cai quản Giao Chỉ. Lã Nghị giữ Đô ty (việc quân). Hoàng Phúc giữ hai ty Bố chính (hành chính) và Án sát (tư pháp).
Ngày 23, quân Minh đánh vào Lỗi Giang (Cẩm Thủy, Thanh Hóa), quân Hồ không đánh mà tan vỡ. Ngày 29, quân Minh đánh vào cửa biển Điền Canh (Tĩnh Gia, Thanh Hóa), quân Hồ bỏ thuyền tự tan vỡ. Cha con họ Hồ muốn chạy vào Thâm Giang (Ngàn Sâu, Hà Tĩnh), rồi lại không đi. Ngụy Thức nói: “Nước đã gần mất, vương giả không nên chết về tay người khác” và khuyên vua nên tự thiêu. Quý Ly giận đem chém.
Ngày 5 tháng 5, quân Minh đánh vào cửa biển Kỳ La (nam Hà Tĩnh).
Tháng 11 năm ấy, quân Minh đánh vào vĩnh Ninh bắt được Quý Ly ở ghềnh Chẩy Chẩy (?), bắt được Nguyên Trừng ở cửa biển Kỳ La. Ngày 12 tháng ấy bắt được Hán Thương và Thái tử Nhuế ở trong núi Cao Vọng. Chỉ có Ngô Miễn và Kiều Biểu là nhảy xuống sông chết. Một số khác phải đầu hàng, trong đó có Nguyễn Phi Khanh. Thế là tròn sáu năm làm quan cho nhà Hồ, Nguyễn Phi Khanh vướng vào quốc nạn, bị đóng cũi đưa sang nước Minh, cầm tù ở Vạn Sơn Điếm cho đến khi chết. Em Nguyễn Trãi là Phi Hùng theo hầu cha khi ấy mới đem tro cốt của cha về chôn trên núi Báo Đức. 

Ngôi mộ ấy ngày nay vẫn còn. Theo con mắt phong thủy thì ngọn núi Báo Đức giống như một búp hoa sen vậy. Ngọn núi không nhọn mà lượn tròn, các bên sườn núi lại có những u bò gồ lên khá cân đối giống như những lớp cánh sen ấp vào. Lên đỉnh mà ngắm nhìn lại thấy ngọn núi giống như phần nhụy một bông sen, các dãy núi Dây Diều, Đá Vách, Vắt Vai…nhấp nhô bốn phía giống như những lớp cánh sen bao quanh…Tương truyền, ngôi mộ này là do Hoàng Phúc đặt cho để trả ơn Nguyễn Trãi, người chủ trương “mưu phạt tâm công” trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đã thu nuôi, đối xử nhân đạo và trao trả toàn bộ số tù hàng binh của nhà Minh sau khi thua trận. Theo Hoàng Phúc thì ngôi mộ này trường mach, sẽ hóa giải được sự đoản mạch của ngôi mộ phát phúc ở Nhị Khê của dòng họ Nguyễn. Có điều sen cần có nước và phải chờ  sáu trăm năm sau thì vùng này mới có nước.
Đúng là gần sáu trăm năm sau, giữa thế kỷ XX, sau khi miền Bắc được giải phóng (1954), ở Chí Linh rất nhiều đập nước được xây dựng, trong đó có đập Bến Tắm. Từ đó các khe lạch ở vùng dưới chân nuí Báo Đức bỗng biến thành hồ chứa nước. Năm 1980, đúng sáu trăm năm sinh Nguyễn Trãi, tổ chức UNESCO của LIÊN HỢP QUỐC vinh danh Nguyễn Trãi là “Anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới”. Từ đó tên tuổi và tư tưởng của Nguyễn Trãi tỏa sáng trên phạm vi toàn thế giới. Từ đó Nguyễn Trãi trở thành niềm tự hào của dân tộc Việt Nam, càng là niềm tự hào đặc biệt của gia tộc các chi họ Nguyễn ở Dự Quần, Phương Quất, Nhị Khê, Chi Ngãi…Phải chăng đó chính là sự hóa giải cho cái “mạch đoản” của Nhị Khê chăng?

* Thơ trích dẫn trong bài viết theo lời dịch của Đỗ Đình Tuân
2/7/2013
Đỗ Đình Tuân

2 nhận xét:

  1. VÔ CÙNG THƯƠNG TIẾC CỤ NGUYỄN PHI KHANH . CÁM ƠN RẤT NHIỀU CÁI ANH TUÂN ĐỖ.ĐÃ LÀM CHO MỖ HIỂU THÊM NGƯỜI XƯA. !!!

    Trả lờiXóa
  2. Phải qua thày Đỗ Đình Tuân em mới hiểu thêm về cụ Nguyễn Phi Khanh và núi báo đức. Rất cám ơn thày và bài viết của thày

    Trả lờiXóa