Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Tư, 3 tháng 7, 2013

ĐỌC THƠ NGUYỄN PHI KHANH *



              

                                                                    Núi Báo Đức
               
                                                                               *
Đọc thơ Nguyễn Phi Khanh  thấy đúng là năm 19 tuổi ông đã đi thi và đỗ tiến sĩ. Đó chính là năm Giáp Dần (1374) niên hiệu Long Khánh thứ 2, thời vua Duệ Tôn. Bởi có đến hai bài thơ ông nhắc tới chuyện này. Bài thứ nhất là bài “Thiên Trường thí hậu hữu cảm” (Cảm xúc sau kỳ thi ở Thiên Trường”. Về kỳ thi ấy thì Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Mùa xuân, tháng 2, thượng hoàng ở cung Trùng Hoa phủ Thiên Trường. Thi đình các tiến sĩ, cho Đào Sư Tích đỗ trạng nguyên, Lê Hiến Phủ đỗ bảng nhãn, Trần Đình Thâm đỗ thám hoa, cho bọn Tu La đỗ hoàng giáp cập đệ và đồng cập đệ; đều cho ăn yến và mặc áo xấp, cho xuất thân theo thứ bậc khác nhau”.
Bài thơ của Nguyễn Ứng Long (từ đây xin dùng tên cũ của Nguyễn Phi Khanh) không nói đến chuyện đỗ đạt mà chỉ nói nỗi lòng ông sau khi thi xong:
Sáng nay chính lúc đau lòng nhất
Quá nửa xuân hơn bỗng nhớ nhà.
(Bài 22:Cảm xúc sau kỳ thi ở Thiên Trường)  
          Bài thứ hai là bài “Thu trung bệnh” (Bài 25:Ốm giữa mùa thu) ông có nhắc lại một câu “Long Khánh  nhị niên  tân tiến sĩ” (Trở thành vị tiến sĩ mới vào năm Long Khánh thứ hai). Qua hai chi tiết này cho ta biết năm 1374 ông có đi thi và chỉ đỗ tiến sĩ thôi. Những cuộc thi tiếp sau, được tổ chức vào các năm 1381 và năm1384 nhưng cũng đều không thấy nói đến việc Nguyễn Ứng Long đỗ bảng nhãn.
          Tuy đỗ tiến sĩ nhưng ông lại không được bổ dụng. Lý do chỉ là vì “Bọn ấy lấy vợ con nhà phú quý, là kẻ dưới mà phạm người trên, bỏ không dùng” (Lời thượng hoàng Trần Nghệ Tông). Như vậy thì câu chuyện tình giữa anh gia sư Nguyễn Ứng Long với cô học trò Trần Thị Thái đã xẩy ra trước năm 1374 rồi. Có một điều lạ là nhà quan Tư đồ Trần Nguyên Đán có hai cô tiểu thư lá ngọc cành vàng thì cả hai Trần Nguyên Đán đều chọn cho mỗi cô một thày giáo là nho sĩ bình dân ? Cô chị là Nguyễn Ứng Long và cô em là Nguyễn Hán Anh. Giữa cái thời “nam nữ thụ thụ bất thân”, con gái nhà lành thường phải “cấm cung”, thì Trần Nguyên Đán lại giao mỗi cô cho một thày giáo trẻ “kèm cặp”. Thế chẳng quá bằng xui là gì? Kết quả là cả hai cặp “thày trò” ấy đều “ làm thơ nôm ghẹo nhau”, rồi yêu nhau và thành vợ thành chồng. Cặp Nguyễn Ứng Long và Trần Thị Thái thì “nghiêm trọng” hơn vì để lại hậu quả làm cô Thái có bầu. Nguyễn Ứng Long sợ quá phải bỏ trốn. Trần Nguyên Đán có lẽ cũng nhận ra phần “trách nhiệm” của mình (?) nên mới không quở trách gì, cho người đi  tìm về, rồi tác hợp cho đôi trẻ. Ông chỉ yêu cầu Ứng Long phải học hành đỗ đạt, làm nên sự nghiệp để được tiếng tốt về sau.
Nhưng đỗ dạt rồi, Nguyễn Ứng Long lại bị bỏ rơi. Tâm trạng ông ôm nặng một nỗi buồn u uất, khó nguôi ngoai. Đây là tâm trạng của ông chừng nửa năm sau ngày thi đỗ :
Bao chuyện không thành sầu chất dạ
Canh tàn trằn trọc mắt trơ trơ
(Bài 25: Ốm giữa mùa thu)
Trở về làng quê ông vẫn sống trong một tâm trạng nặng nề như thế, chỉ còn biết lấy rượu và thơ để giải sầu:
Vừa uống vừa ngâm rót cạn chai
Nỗi niềm sâu kín ngỏ cùng ai
Vườn xưa mưa ít cúc bông muộn
Lối rậm người đi thu sắc phai
Sau hội Long Sơn chừng có dịp
Lòng về Bành Trạch chính đây rồi
Triền miên muôn việc dành say một
Ao Phượng thân này như đến nơi.
(Bài 41: Ở quê uống rượu một mình)
 Thậm chí đến nhiều chục năm sau, trong đêm vắng một mình, ông vẫn còn cảm thấy xót xa:
Khó tan sầu mới hờn xưa
Nỗi lòng nam bắc trong mơ giật mình
Không người trăng cũng buồn tênh
Đêm đêm thu đến chạnh tình xót thương.
(Bài 68: Đêm thu)
Tâm trạng ấy khiến ông sống như một người vất vưởng. Khi ở quê  chỉ thấy ông say và ngủ:
Nhàn rỗi tênh tênh thêm túy lúy
Đường đời man mác lại say sưa
Tỉnh ra đày tớ cho theo gót
Ai gặp toàn hay chuyện lúa ngô.
(Bài 9: Thú Quê nhà)
Khi lên Hòe phủ lại thấy ông chỉ ngủ và say:
Khách nơi hòe phủ dạ chim đồng
Sầu dạ khuyên ta cạn chén nồng
Chiếc gối bên song khi đẫy giấc
Viết bài thơ mới dạy nhi đồng.
(Bài 11: Khiển hứng ngày thu)
Ông tự thẹn trước cảnh sống nhàn rỗi và vô tích sự ấy của mình:
Thói nhàn khó được đời ưa
Thẹn thùng chẳng giám điểm tô chi mình
Thông già cúc muộn Uyên Minh
Cây đơn Tử Mỹ cũng đành vậy thôi
(Bài 35: Phụng họa thơ tướng công Băng Hồ gửi Đỗ Trung Cao)
Mỗi lần gặp bạn cũ là lại chạnh lòng:
Bây giờ tuyển dụng đôi nơi
Nhớ ngày cùng học cùng ngồi dự thi
Chia tay lúc tiễn nhau về
Hẹn nhau gắng sức đợi khi vua dùng.
(Bài 3: Gửi bạn đồng niên họ Trương)
Mừng bạn được bổ dụng, trong lòng ông dường như cũng có háo hức lên chút ít nhưng rồi lại phảng phất hoài nghi:
Xương Phù nay thấy cử ba ông
Đã đem phong thái làm khuôn mẫu
Hãy lấy lòng trung động cửu trùng
Lưu lại thanh danh soi sáng mãi
Nhân gian ngã rẽ khói mây lồng
(Bài 20: Mừng ba quan ngự sử họ Tống, họ Lê, họ Đỗ).  
Trong hoàn cảnh ấy, người giành cho ông nhiều ưu ái nhất chính là nhạc phụ Trần Nguyên Đán. So với Nguyễn Hán Anh ông được sống gần với bố vợ hơn:
Bên tây hòe phủ ở gần
Thênh thênh một mái thanh bần yên vui
(Bài 49:Lại trả lời thơ Hồng Châu)
Dường như không có chuyến du xuân vãng cảnh nào mà Ứng Long không được cùng  đi. Những  tiệc rượu mừng tiết đẹp… trong dinh quan tư đồ, thấy Ứng Long đều có mặt và trong lúc vui say Ứng Long cũng cười nói khá tự nhiên:
Mơ màng say tỉnh cùng thu đẹp
Hát váng cười to thật thỏa lòng
(Bài 31:Tháng chín trong bữa tiệc của tướng công Băng Hồ)
Tự đáy sâu tâm hồn, Nguyễn Ứng Long rất tôn kính bố vợ. Trong thơ ông, Trần Nguyên Đán hiện ra trước hết là một nhà chính trị trụ cột của triều đình tận tụy vì dân, vì nước. Ừng Long luôn khẳng định một điều là lòng tôn kính của ông đối với Trần Nguyên Đán không phải vì tình riêng mà chỉ là vì Trần Nguyên Đán thật sự là một người đáng kính:
Trời dành quốc lão phò xương vận
Nước quý ba vua có cựu thần
Chúc tụng há vì riêng kẻ sĩ
Vì Người nghĩa cả dạ thương dân.
(Bài 52:Ngày Nguyên Đán dâng lên tướng công Băng Hồ)
Và đồng thời với con người chính trị ấy, trong Trần Nguyên Đán còn có một con người văn hóa rất hào hoa phong nhã:
Quen sống cùng hồ hải
Chuyên lo việc triều đình
Thơ nhã cùng chim cá
Câu hay lan chỉ thơm
(Bài 61: Theo tướng công Băng Hồ đi chơi sông mùa xuân)
 Trần Nguyên Đán cũng là người hiểu ông và thương ông hơn cả. Ông rất tiếc cho chàng con rể tài cao mà sớm phải sống một cuộc đời như ẩn dật:
Câu trăng ai sớm cầy mây
Nghìn chung vạn mái của này phần ai ?
(Thơ Trần Nguyên Đán, bài 39: Gửi tặng Nguyễn Ứng Long ở Nhị Khê)
Trần Nguyên Đán cũng chính là người mà Nguyễn Ứng Long gửi gắm niềm tin cậy. Sống ở quê, chứng kiến những “tiêu cực xã hôi” , bức xúc là ông  lại làm thơ gửi lên thay cho lời biểu tấu:                                      
Lúa đồng ngàn dặm đỏ như thiêu
Thôn xóm than phiền chẳng chỗ kêu
Đất rộng mênh mông đều nứt nẻ
Trời cao thăm thẳm cứ trong veo
Tham quan miệng lưỡi vơ hầu hết
Mầu mỡ dân gian nửa đã tiêu
Dâng áng thơ này thay biểu tấu
Hiện đang nằm bệnh khó lai triều.
(Bài 38:Ở quê xúc động trước sự việc xẩy ra gửi trình tướng công Băng  Hồ)
 Nhưng người mà ông có thể chia sẻ nhiều tâm sự hơn cả có lẽ lại là Nguyễn Hán Anh, người anh em cọc chèo với ông. Trong những dịp gần nhau, câu chuyện giữa họ thường miên man  không dứt. Chỉ hết ngày hết buổi thì phải ngừng thôi. Nhưng mong ngày sau lại tiếp tục:
Cửa sài quét lá sai con trẻ
Ông đến ngày mai chuyện tiếp theo.
(Bài 24:Đêm thu dậy sớm gửi kiểm chính Hồng Châu)
Gắn bó thế nên những cuộc tiễn đưa giữa họ thường rất lưu luyến:
Đêm qua trò chuyện trước đèn
Sáng nay gió sớm đã lên ngựa rồi
Mắt theo cửa Bắc trông vời
Lòng về đã gửi bên ngòi xứ Đông
Sân hòe chim thước ngóng trông
Lau thu biền biệt chim hồng nhớ thương
Chanh thơm nếp trắng rượu làng
Thương ta đơn độc còn vương bụi trần.
(Bài 55: Tiễn Nguyễn Hán Anh về Hồng Châu)
Có một điều lạ trong tình cảm của họ là, khi ở xa hễ cứ nhớ đến nhau là ốm cũng khỏe dậy, trong lòng lại thấy hào hứng hăng hái lên:
Há vì trận ốm hao hào khí
Tỉnh dậy ngâm nga hát váng trời.
(Bài 56: Trong khi ốm nhớ Hồng Châu kiểm chính Nguyễn Hán Anh)
(Còn nữa)
Đỗ Đình Tuân

3 nhận xét:

  1. Nhìn chung đây là một bài viết khá công phu, cung cấp nhiều kiến thức và khám phá khá tinh về tâm trạng của tác giả. Tuy nhiên em thấy câu văn " Cô chị là Nguyễn Ứng Long và cô em là Nguyễn Hán Anh" chưa sáng nghĩa lắm. Cố nhiên đặt trong văn cảnh cụ thể người ta vẫn hiểu được nhưng dù sao đọc đến đó cũng vẫn thấy sàn sạn trong mạch văn ( Song Thu)

    Trả lờiXóa
  2. Để câu văn trong chuỗi lời (dòng ngữ lưu), trong văn ccảnh của nó thì không ai hiểu lầm cả. Nhưng nếu tách riêng ra thì ý nghĩa câu văn lại "chuyển giới". Mấy cô tiểu thư nhà cụ "Trần" bỗng thành đàn ông cả. Như thế thì văn càng "hiện đại" chứ sao? Bây giờ phụ nữ các nước người ta đang chuyển giới đầy. Như "Tri Ân cuộc đời" thích đọc theo lối "mỗi giờ chỉ nhấm độc có một câu" thì có thể đổi chữ "là" thành chữ "giao cho". Còn đọc văn bình thường như ta ăn rau muống,cứ từng "nút đó" một mà cho vào mồm nhồm nhoàm nhá nhuốt thì để nguyên. Vẫn không thấy có cảm giác "sạn".

    Trả lờiXóa
  3. Không nên CÃI NHAU nữa .HAY ĐẤY; Viết tiếp đi NHÁ !

    Trả lờiXóa