(từ trang 12 đến khoảng 1/3 trang 15)
NÚI CÔN SƠN
Dịch âm:
Tiên tòng Chi Ngại thuyết Côn
Sơn
Phượng Nhãn tiên bi thạch bất
san
Thạch bích liên không văn mạc
mạc
Thạch tuyền phún ngọc thúy
sàn sàn
Tinh khai kim trướng lâm
huyền vũ
Thiên thực kỳ lân túng thế
gian
Ngọc Kiều thạch động yêu minh
nguyệt
Tăng viện thiên am hám bích
than
Cảnh vật bất phàm dù chí cổ
Yên hà môi kỷ đạt nhân nhàn.
Dịch nghĩa:
Bắt đầu tòng Chi Ngãi nói về
núi Côn Sơn
Trước thuộc huyện Phượng Nhãn
bia đá hãy còn
Vách đá ngất trời tấng mây bày
lơ lửng
Suối trong như ngọc dòng nước
chảy rì rầm
Về phương Bắc có núi Kim Tinh
(1) bày rộng ra
Trên núi hình như con kỳ lân
đứng sừng sững
Núi có Thấu Ngọc, động Thanh
Hư ánh trăng soi tỏ
Lại có am viện của các thày
tu nhòm xuống suối nước biếc
Cảnh vật quý báu trong sách
xưa đã có chép
Thú yên hà đã làm cho bao
khách nhàn ngâm thưởng.
Tạm dịch là:
Chi Ngại đầu tiên kể núi Côn
Bia xưa Phượng Nhỡn đá chưa
mòn
Chọc trời vách đá từng mây
lửng
Phun ngọc suối thanh mạch
nước ròn
Huyền vũ mạch về sao rải rác
Kỳ lân đứng sững núi chon von
Ngọc Kiều, Thanh Động trăng
trong rọi
Tăng viện thiên am thác biếc
nhòm
Cảnh đẹp còn ghi trong địa
chí
Khách nhàn vui thú nước cùng
non
(1): Kim Tinh: theo nhà địa
lý cổ thì những núi hay giống hình tròn thì gọi là Kim Tinh.
Núi
Côn Sơn ở địa phận tổng Chi Ngãi, trước thuộc huyện Phượng Nhỡn xứ Kinh Bắc, có
bia đá ghi chép hãy còn. Mạch núi từ phương Bắc dẫn lại có núi hình Kim tinh mở
rộng, núi này hình như con kỳ lân đứng sững. Núi có động cổ, trong động rộng
lớn, gọi là động Thanh Hư, dưới có suối đá, nước thường chảy rì rầm không
cạn,(?) gọi là cầu Thấu Ngọc. Sách... (1) nói sách An Nam chí đều cho
là “trên núi có động Thanh Hư, cầu Thấu Ngọc là cảnh tuyệt đẹp ở trần gian” tức
là nơi này. Dười chân núi rộng rãi, phẳng lạt như chiếu trải, các núi bên phải,
bên trái lớp lớp bao quanh. Núi Yên Phụ cách xa hơn trăm dặm, sừng sững đối lập
như ở trước mặt. Trên dưới có áoắc nước trong suốt, có suối ở hai bên chảy qua
phía trước, dòng nước quanh co, cách núi độ vài chục dặm chảy vào sông lớn. Lên
núi ngắm trông rất là sướng mắt, thật là cái thú lâm tuyền của một vùng. Pháp
Loa là vị thánh thứ hai của tám lâm Trúc thiền sư đời Trần lập am ở đó. Đến đời
vua Minh Tông, có trạng nguyên Lý Đạo Thành, tự là Thượng Huệ, tên hiệu là
Huyền Quang, quê ở xã Vạn Ty, huyện Gia Lâm (?) từ chức về tu ở chùa trên núi
Yên Tử, thuộc huyện Đông Triều được 3 năm, có chiếu vời về kinh đô làm đàn chay
7 ngày 7 đêm. Khi xong việc, người lại trở về chùa ở núi Côn Sơn. Vì cảm hứng
ông có viết bài thơ bằng thể thơ 5 chữ như sau:
Vũ
quá thiên sơn tĩnh
Phong
lai nhất mộng lương
Cập
quan trần thế giới
Khai
nhãn tứ mang mang.
Dịch nghĩa:
Mưa
xong ngàn núi tĩnh mịch
Gió
lại giấc mộng thanh sáng
Tỉnh
ra ngẫm xem cõi trần tục
Trong
tâm hồn cảm thấy lòng bâng khuâng
Tạm dịch là:
Mưa
xong ngày núi sạch ngay
Gió
đâu đưa lại tỉnh ngay giấc mòng
Cõi
trần ngảnh lại mà trông
Buông
xa tầm mắt trong lòng bâng khuâng.
Đến ngày 22 tháng giêng âm lịch thì Người về chốn Niết Bàn,
tức là cõi Phật, thường có hiển ứng, nên các triều đại đã chi chuẩn ban sắc cho
xã sở tại phụng thờ, dần thành một chốn danh lam.
Đến
cuối đời Trần, quan Đại tư đồ Trần Nguyên Đán, biệt hiệu là Băng Hồ Công cũng
từ quan về ở núi này.
Đến đầu
triều Lê, quan chỉ thừa quan phục hầu Nguyễn Trãi, biệt hiệu là Ức Trai tiên
sinh cũng tới làm nhà ở đây. Các thơ ca đề vịnh của ông thường thường thấy ở
các tập sách Nam Việt quần thần.
Vua
Lê Thánh Tông qua chơi núi Côn Sơn, có ngự chế bài thơ như sau:
Tĩnh
thổ lâu đài cảnh trí kỳ
Cổ
nhân trần tích dĩ y hi
Nhất
thiên thảo mộc cùng ngu thưởng
Bất
tận giang sơn nhập chỉ huy
Đại
hữu phế hưng kim thị tích
Sự
vô ký tái thị dữ phi
Hành
trung thặng hữu nhàn tư lạc
Phân
phó tăng đồng ý tự tri.
Dịch nghĩa:
Lâu đài
trên không, đất im lặng, cảnh đẹp lạ
Dấu
cũ người xưa vẫn còn phảng phất
Cây
cỏ một vùng giúp cho ta ngâm hứng
Non
nước bao la cũng trong mắt ngắm trông
Đời
có thịnh suy đến nay coi sởi (?) trước
Việc
không ghi chép biết chăng đúng hay sai?
Trong
cuộc du hành được nhàn là vui thích
Dặn
dò chú tiểu sẽ tự hiểu ý đó của ta.
Tạm dịch là:
Khoảng
vắng lâu đài cảnh đẹp thay
Người
xưa dấu cũ vẫn còn đây
Bao la cảnh đẹp non cùng nước
Lai láng tình thơ cỏ lẫn cây
Đời có thịnh suy nay rứa trước
Việc không ghi chép đúng hay sai
Cuộc đời cảm thấy nhàn là thú
Ướm hỏi tăng đồng ý có hay ?
Xem thơ trên của Lê Thánh Tông có ngụ ý cảm khái.
Hiện nay kê cứu câu thơ của hai ông (2) thì không còn nữa, chỉ còn
thấy ngôi chùa và am cổ mà thôi. Trước đây mỗi năm đến mùa xuân, trai thanh gái
tú của địa phương này đến xem hội đường đi như mắc cửi, thực là một ngày hội
vui của vùng này.
(1): Sách… chỗ này nát mất ba chữ. Đợi kê cứu sau (ND)
(2) : Hai ông : chỉ Trần Nguyên Đán và Nguyễn Trãi.
11/12/2013
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét