Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Hai, 16 tháng 12, 2013

Chí Linh phong vật chí (Tiếp theo)

  (Trang 11 và 12)
 
            PHONG CẢNH NHÂN VẬT HUYỆN CHÍ LINH

                    PHONG CẢNH TRONG HUYỆN CA

Dịch âm:    Chí Linh bách lý phân cương giới
Địa chí tàng tiềm minh ký tái
Đông liên Hiệp Sơn thủy trung lưu
Tây tiếpThanh Lâm giao dã ngoại
Năm tức Thanh hà dữ Thanh Lâm
Bắc liên Lạng Giang đồ cụ tại
Thất tổng phân cư giám đại xuyên
Hà Nam, Hà Bắc cổ danh truyền
Thôn xã sổ cai lục thập ngũ
Bán cư sơn dã bán bình điền.

Dịch nghĩa:
Huyện Chí Linh trăm dặm dây chia rõ bờ cõi
Sách địa chí từ xưa đã ghi chép rõ ràng
Phía đông liền huyện Hiệp Sơn giữa có dòng sông
Phía Tây giáp huyện Thanh Lâm ngoài cánh đồng rộng rãi
Phía nam tức là huyện Thanh Hà với huyện Thanh Lâm
Phía bắc tới phủ Lạng Giang bản đồ còn đó
Bảy tổng chia ra ở hai bên sông lớn
Hà Nam, Hà Bắc tên gọi xưa còn truyền lại
Gồm có 65 thôn xã
Nửa ở miền rừng núi, nửa ở miền đồng bằng.

Dịch thơ:
Chí Linh trăm dặm cõi bờ
Ghi trong địa chí từ xưa rõ ràng
Cách sông đông giáp Hiệp Sơn
Tây Thanh lâm huyện đồng bằng bao la
Nam Thanh Lâm với Thanh Hà
Lạng Giang phía Bắc nhìn qua bản đồ
Giữa bẩy tổng có sông to
Hà nam, hà Bắc lời xưa còn truyền
Sáu lăm (65) thôn xã cách liền
Nửa miền đồng ruộng, nửa miền núi cao.
Giữa huyện có con sông lớn chảy qua, sông này do sông sáu đầu phân chia ra, chảy xuống đền đò Vạn, chảytheo hướng đông đối ngạn với huyện Hiệp Sơn, một chi chảy thẳng xuống sông Bạch Đằng, một chi nữa chảy theo hướng đông qua huyện Thanh Hà đến huyện Tiên Minh (nay là Tiên Lãng) rồi đổ ra bể. Huyện ta nguyên có 7 tổng: Chi Ngãi, Kiệt Đặc, Cổ Châu, Đông Đôi là 4 tổng ở phía bắc sông lớn, còn lại Cao Đôi, An Hộ, An Điền là 3 tổng ở phía nam sông lớn. Vì thế có tên gọi là Hà Nam, Hà Bắc. Bốn tổng thuộc hà Bắc đều về khu đồi núi. Ba tổng thuộc bờ nam đều ở về đồng bằng. Trong sách địa phương chí, do quan Phó đô ngự sử Trần Tiến, người xã Trực Trì biên soạn, đã ghi chép rõ ràng:
Dịch âm:
Bích thủy thanh sơn chung tú khí
Phân minh thắng địa trưng kiêm ký
Cổ kim ngoàn thưởng tầm liễu nhân (1)
Địa thắng thiên bài nhiều thắng trí.

Dịch nghĩa:
Nước biếc non xanh chung đúc khí tốt
Thắng cảnh đã ghi trong sách rõ ràng
Xưa nay làng thơ nhiều người ngâm thưởng
Tạo hóa sắp bầy nhiều cảnh trí đẹp.

Tạm dịch là:
Khí tốt non sông sẵn đúc nên
Rõ ràng cảnh đẹp sách ghi truyền
Làng thơ ngâm thưởng nay như trước
Tạo hóa sắp bày cảnh tự nhiên.

(1): chữ “liễu nhân” là tên người. ý chúng tôi cho là “tao nhân” vì “tao nhân” là “khách thơ” hay “làng thơ” thì mới hợp nghĩa của câu văn (ND)


Sao Đỏ 10/12/3013
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét