SÔNG LỤC ĐẦU
Dịch âm:
Tái
cử danh xuyên tục thuyết tường
Nhạn
Loan cổ độ thị triều dương
Lục
Đầu thượng đoạn giang lưu hội
Trung
hưu than châu nhất đời tường
Đông
bắc long châu tranh hội xứ
Uông
uông vạn khoảnh đạt huyên đường
Truy
tự nhàn tướng yên ba lộ
Mãi
thán ngư thuyền yết cổ vương
Đáo
ký nhung hầu sưu hạm lộ
Nhất
phàm phong lục áp nguyên cường
Túc
kim phong cảnh trường như thử
Tứ
thủy phân minh giáp nhất phương.
Dịch nghĩa:
Lại
đem sông có danh tiếng tiếp tục nói rõ
Bến
Nhạn Loan thuở xưa tức bến đò Triều Dương ngày nay
Ở
trên là đoạn có 6 ngọn sông tụ lại *?
Ở
giữa sông này có một bãi cát dài
Về
phía đông bắc là kiểu đất 3 con rồng tranh nhau hạt ngọc
Muôn
khoảnh mênh mông chảy thông ra ngoài bể lớn
Nhớ
lại đó là con đường thủy mênh mông của một viên nhàn tướng
Ông
bán than từ thuyền câu vào yết liến vua cũ*?
Lại
nhớ đó cũng là con đường thủy của các bậc danh tướng
Đã
thuận buồm xuôi gió để đánh được quân Nguyên cường bạo
Phong
cảnh ngày nay vẫn còn như trước
Con
sông này rõ ràng là một thắng cảnh nhất của một phương
Tạm dịch thơ:
Lại
nói tiếp đến các sông cả
Bến
Nhạn Loan thuộc xã Triều Dương
Sáu
đầu chầu lại mênh mang
Nổi
lên còn có Đại Than giữa dòng
Đông
Bắc kiều “Ba rồng tranh ngọc”*
Nước
mông mênh chảy dốc ra khơi
Sông
đây nhờ trước có người
Bán
than sau lại được vời chầu vua
Đường
quân thủy thuở xưa xuôi ngược
Thuận
buồm ra diệt được quân Nguyên
Đến
nay thắng tích y nhiên
Con
sông lịch sử vang truyền nghìn thu
Bến
đò xã Triều Dương (theo bản đồ cũ là xã Lý Dương), khi trước gọi là Nhạn Loan
(?), nay gọi là đò Triều. Con sông này rộng lớn, trên là sông 6 đầu, tiếp giáp
với huyện Yên Dũng, Phượng Nhỡn chảy xuống Quế Dương, Gia Bình tỉnh Bắc Ninh,
một nhánh từ huyện Phượng Nhỡn chảy xuống (không có tên), một nhánh từ sông Xương
Giang chẩy xuống gọi là Đức Giang, một
nhánh từ sông Nguyệt Giang chảy xuống, gọi là Thiên Đức Giang. Các nhánh sông
hội họp lại, đến bến Nhạn Loan thì lại chia làm hai chi, một chi từ xã Lấu Khê
huyện Thanh Lâm chảy xuống phía Nam, đổ ra sông Hàn. Một chi từ xã Ninh Xá chảy
ra phía đông, đó là sông Lục Đầu. giữa có một bãi cát bồi, gọi là bãi Đại Than.
Nhà địa lý gọi là kiểu đất “Ba con rồng tranh nhau hạt ngọc”. Trần Khánh Dư là
Phiêu kỵ tướng quân đời nhà Trần, phạm lỗi bị cách chức, về núi Chí Linh làm
nghề bán than để sinh sống. Khi vua Trần đến chơi bến Nhạn Loan, trông thấy cho
gọi ông lại. Ông chèo chiếc thuyền câu, mặc áo tơi, đội nón lá vào yết kiến
vua. Vua cho phục lại chức quan cũ. Trong khi Trần Hưng Đạo diệt O Mã Nhi, thủy
quân cũng đi theo con đường này.
(các trang 25, 26 và đầu trang 27)
Nhận xét của Đỗ Đình Tuân
Nếu
hiểu rõ vị trí của xã Triều Dương (tức xã Lý Dương, tục gọi làng Triền) và sông
Lục Đầu thì sẽ thấy soạn giả Chí Linh phong vật chí có nhiều nhầm lẫn trong
đoan tài liệu này.
Sông
Lục Đầu chính là đoạn hợp lưu của 6 đầu sông (Sông Lục Lam, sông Thương (Xương
giang), sông Cầu (Nguyệt giang hay Như Nguyệt), sông Đuống (Thiên Đức Giang),
sông Thái Bình và sông Kinh Thày). Trên thực tế sông Lục Đầu bắt đầu từ ngã ba
Nhãn-Trạm Điền (chỗ gặp nhau của sông Lục Nam và sông Thương và kết thúc ở
ngã tư sông Lấu Khê-Chí Linh. Xã Triều Dương (làng Triền) ở đoạn trên ngã tư
sông này chừng từ 3 đến 4 cây số. Như vậy Triều Dương nằm ở khoảng giữa sông
Lục Đầu (gần phía cuối sông hơn). Vì thế phía trên xã Triều Dương mới có sông
“ba đầu”thôi chứ sao lại đã có sông
“sáu đầu” được?
Bãi Đại Than đối ngạn ngay với xã Triều Dương. Nếu coi bãi
Đại Than là hạt ngọc thì 3 con rồng phải là các sông Đuống, Kinh Thày và Thái
Bình vì chúng cùng chầu đầu về bãi Đại Than.Thế đất “Ba con rồng tranh nhau hạt
ngọc” phải nằm ở phía tây hay trước mặt xã Triều Dương chứ sao lại ở phía đông
bắc?
Cũng vậy vua Trần cho vời gọi Trần Khánh Dư đang chèo thuyền
đi bán than là nhân trên đường về đây dự hội nghị Bình Than (1284) trông thấy
Khánh Dư mới sai người cho gọi vào chứ không phải “về đây chơi” như tài liệu
nói…
25/12/2013
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét