Vua Tự Đức
(1829-1883)
Tự
Đức tên húy là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, còn có tên nữa là Nguyễn Phúc Thì, Sinh
ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (1829), là con thứ hai của vua Thiệu Trị với bà Phạm
Thị Hằng, con gái quan Thượng thư bộ lễ Phạm Đăng Hưng. Anh vua Tự Đức là Nguyễn
Phúc Hồng Bảo là người quá ham chơi, mê cờ bạc, không chịu học hành, vì vậy vua
Thiệu Trị khi mất đã để di chiếu truyền ngôi cho ông.
Tháng
10 năm 1847, ông lên ngôi vua lúc mới 19 tuổi. Vua Tự Đức sức yếu nên ít đi
kinh lý nhưng bù lại ông thông minh, ham học nên kiến thức khá sâu rộng. Có điều
ông thiên về sách vở thành giáo điều bảo thủ và dị ứng với văn minh phương Tây.
Vì thế nên nhiều danh sĩ đương thời như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Đinh
Văn Điền…nhiều lần dâng sớ điều trần xin nhà vua cải cách theo gương Nhật Bản,
Thái Lan, Hương Cảng… đều bị ông từ chối. Kết quả, làm xã hội Việt Nam ngày càng bị
tụt hậu, không phát triển kịp với trào lưu thời đại, cuối cùng rơi vào tay thực
dân Pháp.
Tự
Đức là ông vua chí hiếu. Ông quy định các ngày lẻ trong tháng thì thiết triều
còn các ngày chẵn thì dành chầu thăm mẹ. Khi vào chầu thì quỳ gối nín hơi hỏi thăm
sức khỏe mẹ, rồi sau đó mới cùng mẹ đàm đạo kinh sách. Bà Thái hậu Từ Dũ (Phạm Thị Hằng) vốn là người thông kinh bác sử biết nhiều chuyện cổ kim. Hễ thấy mẹ nói
gì ông thường ghi vào sổ nhỏ gọi là Từ huấn
lục (sách ghi những điều mẹ dậy).
Vua
Tự Đức không có con, ông nuôi ba người cháu làm con nuôi: Con đầu là Nguyễn
Phúc Ưng Ánh (sau đổi là Ưng Chân) tức vua Dục Đức sau này. Người thư hai là
Nguyễn Phúc Ưng Ái, sau là vua Đồng Khánh. Người thứ ba là Nguyễn Phúc Ưng
Đăng, sau là vua Kiến Phúc.
Ngày
16 tháng 6 năm Quý Mùi (1883) Tự Đức mất, trị vì được 35 năm, dài nhất trong
các vua triều Nguyễn và hưởng thọ 55 tuổi.
Về
văn hóa, vua Tự Đức là người chủ trương soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám
cương mục. Bản thân nhà vua cũng viết nhiều thơ văn sau tập hợp trong các sách:
Việt sử tổng vịnh, Ngự chế thi phú, Ngự
chế thi...
Dưới
đây chúng tôi xin giới thiệu mấy bài thơ của vua Tự Đức viết về các danh nhân ở
Chí Linh
1.詠陳興道
為國忘家迥物情
手中空杖武功成
後來北虜猶驚遁
白晝風雷匣劍鳴
嗣德
Phiên
âm
Vịnh Trần Hưng Đạo
Vị
quốc vong gia quýnh vật tình
Thủ
trung không trượng vũ công thành
Hậu
lai Bắc lỗ do kinh độn
Bạch
trú phong lôi hạp kiếm minh.
Tự Đức
Dịch
nghĩa:
Làm thơ về Trần Hưng Đạo
Vì
nước quên nhà buông vật nhọn để tỏ lòng
Trong
tay không gậy nhưng võ công lừng lẫy
Sau
này bọn giặc phương Bắc cứ thoáng nghe đã khiếp vía bỏ chạy
Giữa
ban ngày mà cây kiếm nằm trong hộp vẫn rền vang như gió sấm.
Dịch thơ
Tỏ
lòng vì nước buông cây nhọn
Không
gậy trong tay lập đại công
Giặc Bắc thoáng nghe bèn
khiếp chạy
Trong hòm gió sấm kiếm
còn rung.
Đỗ Đình Tuân dịch
2.詠朱文安
上庠山斗世間師
心與人乖一去遲
七斬疏成天地鋻
直聲不共有陳衰
嗣德
Phiên
âm
Vịnh Chu
Văn An
Thượng
tường sơn đẩu thế gian sư
Tâm
dữ nhân quai nhất khứ trì
Thất
trảm sớ thành thiên địa giám
Trực
thanh bất cộng hữu Trần suy.
Tự Đức
Dịch
nghĩa
Làm thơ về Chu Văn An
Trường
học mãi trên Thái Sơn Bắc Đẩu là người thày của thế gian
Lòng
thày khác với mọi người nhất nhất đi đứng đều ung dung thư thái
Viết
xong sớ thất trảm trời đất đều nhìn rõ
Lời
ngay mà không nghe tất có nhà Trần suy vong.
Dịch thơ
Thái Sơn Bắc Đẩu xứng
danh thày
Lòng khác mọi người tính
thẳng ngay
Thất trảm viết xong trời đất rõ
Vua Trần không thuận tất
lung lay.
Đỗ Đình Tuân dịch
3.詠陳元旦
要路多艱勢路開
琴詩自作自嘲詼
當年殉難惟莊定
猶笑才非大厦才
嗣德
Phiên
âm
Vịnh Trần Nguyên Đán
Yếu
lộ đa gian thế lộ khai
Cầm
thi tự tác tự trào khôi
Đương
niên tuẫn nạn duy Trang Định
Do
tiếu tài phi Đại Hạ tài.
Tự Đức
Dịch
nghĩa
Làm thơ về Trần Nguyên
Đán
Con
đường trọng yếu tuy nhiều gian nan nhưng
đã mở lối cho cuộc đời
Tự
làm thơ nhạc tự cười vui
Cùng
năm ấy chết vì gặp nạn chỉ có Trang Định
Còn
cười tài của mình không bằng tài của vua Đại Hạ.
Dịch thơ
Gian hiểm đường đời mở lối
ra
Tự làm thơ nhạc tự cười
khà
Cùng năm tử nạn riêng
Trang Định *
Đại Hạ cười mình vẫn kém xa.
Đỗ Đình Tuân dịch
Ghi chú
*Trang
Định: tức Trang Định vương, tên húy là Trần Ngạc, con thứ của Trần Nghệ Tông bị
Hồ Quý Ly âm mưu giết hại.
4.詠阮廌
葩國詞章筆舌蘭
平呉名溢鼎鍾間
功成已愛崑山興
其柰蛾眉不許還
嗣德
Phiên
âm
Vịnh Nguyễn Trãi
Ba
quốc từ chương bút thiệt lan
Bình
Ngô danh dật đỉnh chung gian
Công
thành dĩ ái Côn Sơn hứng
Kỳ
nại nga my bất hứa hoàn
Tự Đức
Dịch
nghĩa
Làm thơ về Nguyễn
Trãi
Ngòi
bút văn chương là tinh hoa của đất nước
Bình
ngô công lớn khắc vào chuông đỉnh
Khi
thành công rồi lại yêu Côn Sơn và thú ở đấy
Sao
không giữ người đẹp ở lại ?
Dịch thơ
Sáng đẹp văn chương
nhất quốc gia
Bình Ngô danh tiếng
mãi không nhòa
Công thành yêu đất Côn Sơn ở
Người đẹp sao không
giữ lại nhà ?
Đỗ Đình Tuân dịch
24/9/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét