Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Tư, 26 tháng 9, 2012

Các vua viết về Chí Linh 6



 
     Vua Tự Đức
     (1829-1883)
 
Tự Đức tên húy là Nguyễn Phúc Hồng Nhậm, còn có tên nữa là Nguyễn Phúc Thì, Sinh ngày 25 tháng 8 năm Kỷ Sửu (1829), là con thứ hai của vua Thiệu Trị với bà Phạm Thị Hằng, con gái quan Thượng thư bộ lễ Phạm Đăng Hưng. Anh vua Tự Đức là Nguyễn Phúc Hồng Bảo là người quá ham chơi, mê cờ bạc, không chịu học hành, vì vậy vua Thiệu Trị khi mất đã để di chiếu truyền ngôi cho ông.
Tháng 10 năm 1847, ông lên ngôi vua lúc mới 19 tuổi. Vua Tự Đức sức yếu nên ít đi kinh lý nhưng bù lại ông thông minh, ham học nên kiến thức khá sâu rộng. Có điều ông thiên về sách vở thành giáo điều bảo thủ và dị ứng với văn minh phương Tây. Vì thế nên nhiều danh sĩ đương thời như Phạm Phú Thứ, Nguyễn Trường Tộ, Đinh Văn Điền…nhiều lần dâng sớ điều trần xin nhà vua cải cách theo gương Nhật Bản, Thái Lan, Hương Cảng… đều bị ông từ chối. Kết quả, làm xã hội Việt Nam ngày càng bị tụt hậu, không phát triển kịp với trào lưu thời đại, cuối cùng rơi vào tay thực dân Pháp.
Tự Đức là ông vua chí hiếu. Ông quy định các ngày lẻ trong tháng thì thiết triều còn các ngày chẵn thì dành chầu thăm mẹ. Khi vào chầu thì quỳ gối nín hơi hỏi thăm sức khỏe mẹ, rồi sau đó mới cùng mẹ đàm đạo kinh sách. Bà Thái hậu Từ Dũ (Phạm Thị Hằng) vốn là người thông kinh bác sử biết nhiều chuyện cổ kim. Hễ thấy mẹ nói gì ông thường ghi vào sổ nhỏ gọi là Từ huấn lục (sách ghi những điều mẹ dậy).
Vua Tự Đức không có con, ông nuôi ba người cháu làm con nuôi: Con đầu là Nguyễn Phúc Ưng Ánh (sau đổi là Ưng Chân) tức vua Dục Đức sau này. Người thư hai là Nguyễn Phúc Ưng Ái, sau là vua Đồng Khánh. Người thứ ba là Nguyễn Phúc Ưng Đăng, sau là vua Kiến Phúc.
Ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (1883) Tự Đức mất, trị vì được 35 năm, dài nhất trong các vua triều Nguyễn và hưởng thọ 55 tuổi.
Về văn hóa, vua Tự Đức là người chủ trương soạn bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Bản thân nhà vua cũng viết nhiều thơ văn sau tập hợp trong các sách: Việt sử tổng vịnh, Ngự chế thi phú, Ngự chế thi...
Dưới đây chúng tôi xin giới thiệu mấy bài thơ của vua Tự Đức viết về các danh nhân ở Chí Linh

1.詠陳興道
為國忘家迥物情
手中空杖武功成
後來北虜猶驚遁
白晝風雷匣劍鳴
                    嗣德
 
Phiên âm
Vịnh Trần Hưng Đạo
Vị quốc vong gia quýnh vật tình
Thủ trung không trượng vũ công thành
Hậu lai Bắc lỗ do kinh độn
Bạch trú phong lôi hạp kiếm minh.
                                      Tự Đức
 
Dịch nghĩa:
Làm thơ về Trần Hưng Đạo
Vì nước quên nhà buông vật nhọn để tỏ lòng
Trong tay không gậy nhưng võ công lừng lẫy
Sau này bọn giặc phương Bắc cứ thoáng nghe đã khiếp vía bỏ chạy
Giữa ban ngày mà cây kiếm nằm trong hộp vẫn rền vang như gió sấm.
 
Dịch thơ
Tỏ lòng vì nước buông cây nhọn
Không gậy trong tay lập đại công
Giặc Bắc thoáng nghe bèn khiếp chạy
Trong hòm gió sấm kiếm còn rung.
                         Đỗ Đình Tuân dịch

2.詠朱文安
上庠山斗世間師
心與人乖一去遲
七斬疏成天地鋻
直聲不共有陳衰
                    嗣德
 
Phiên âm
Vịnh Chu Văn An
Thượng tường sơn đẩu thế gian sư
Tâm dữ nhân quai nhất khứ trì
Thất trảm sớ thành thiên địa giám
Trực thanh bất cộng hữu Trần suy.
                                        Tự Đức
 
Dịch nghĩa
Làm thơ về Chu Văn An
Trường học mãi trên Thái Sơn Bắc Đẩu là người thày của thế gian
Lòng thày khác với mọi người nhất nhất đi đứng đều ung dung thư thái
Viết xong sớ thất trảm trời đất đều nhìn rõ
Lời ngay mà không nghe tất có nhà Trần suy vong.
 
Dịch thơ
Thái Sơn Bắc Đẩu xứng danh thày
Lòng khác mọi người tính thẳng ngay
Thất trảm viết xong  trời đất rõ
Vua Trần không thuận tất lung lay.
                             Đỗ Đình Tuân dịch

 
3.詠陳元旦
要路多艱勢路開
琴詩自作自嘲詼
當年殉難惟莊定
猶笑才非大厦才
                    嗣德
 
Phiên âm
Vịnh Trần Nguyên Đán
Yếu lộ đa gian thế lộ khai
Cầm thi tự tác tự trào khôi
Đương niên tuẫn nạn duy Trang Định
Do tiếu tài phi Đại Hạ tài.
                             Tự Đức
 
Dịch nghĩa
Làm thơ về Trần Nguyên Đán
Con đường trọng yếu tuy nhiều gian nan nhưng 
                                                    đã mở lối cho cuộc đời
Tự làm thơ nhạc tự cười vui
Cùng năm ấy chết vì gặp nạn chỉ có Trang Định
Còn cười tài của mình không bằng tài của vua Đại Hạ.
 
Dịch thơ
Gian hiểm đường đời mở lối ra
Tự làm thơ nhạc tự cười khà
Cùng năm tử nạn riêng Trang Định *
Đại Hạ cười mình vẫn  kém xa.
                             Đỗ Đình Tuân dịch

Ghi chú
*Trang Định: tức Trang Định vương, tên húy là Trần Ngạc, con thứ của Trần Nghệ Tông bị Hồ Quý Ly âm mưu giết hại.

4.阮廌
葩國詞章筆舌蘭
平呉名溢鼎鍾間
功成已愛崑山興
其柰蛾眉不許還
                    嗣德
 
Phiên âm
Vịnh Nguyễn Trãi
Ba quốc từ chương bút thiệt lan
Bình Ngô danh dật đỉnh chung gian
Công thành dĩ ái Côn Sơn hứng
Kỳ nại nga my bất hứa hoàn
                                Tự Đức
 
Dịch nghĩa
Làm thơ về Nguyễn Trãi
Ngòi bút văn chương là tinh hoa của đất nước
Bình ngô công lớn khắc vào chuông đỉnh
Khi thành công rồi lại yêu Côn Sơn và thú ở đấy
Sao không giữ người đẹp ở lại ?
 
Dịch thơ
Sáng đẹp văn chương nhất quốc gia
Bình Ngô danh tiếng mãi  không nhòa
Công thành yêu đất  Côn Sơn ở
Người đẹp sao không giữ lại nhà ?
                               Đỗ Đình Tuân dịch
24/9/2012
Đỗ Đình Tuân                              

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét