Hồ Nguyên Trừng
( ? )
Hồ Nguyên Trừng, khi làm quan cho
nhà Minh đổi là Lê Trừng, tự Mạnh Nguyên, biệt hiệu là Nam Ông (ông già phương nam), người ở vùng Đại Lại tỉnh
Thanh Hóa. Chưa rõ ông sinh và mất năm nào, chỉ biết ông là con cả của Hồ Quý
Ly nhưng ông không kế vị cha làm vua mà chỉ giữ các chức như Tư đồ, Tả tướng
quốc…
Năm 1407, mượn cớ “phù Trần diệt
Hồ”, nhà Minh đã đem quân xâm lược nước ta, cha con Hồ Quý Ly đều bị bắt
đưa về Kim Lăng Trung Quốc. Hồ Quý Ly và Hồ Hán Thương bị xử tử hình, nhưng Hồ
Nguyên Trừng và một người cháu tên là Nhuế, con Hồ Hán Thương thì được tha bổng
vì có tài và bằng lòng làm quan phục vụ nhà Minh. Lúc đó Lê Trừng đã sáng chế
ra một loại súng “Thần cơ” có tính năng, tác dụng tốt hơn hẳn các loại súng
thời bấy giờ. Lê Trừng đã tỏ ra trung thành với nhà Minh và hững hờ với vận
mệnh của dân tộc. Trong những năm sống ở Trung Quốc, Lê Trừng từng được nhà
Minh cho làm đến chức Á khanh như Chính nghị đại phu, Công bộ tả thị lang v.v…
Tuy vậy trong sâu thẳm cõi lòng Lê
Trừng vẫn âm ỉ những nỗi niềm của một người Việt tha hương, đó là lòng nhớ
nước, niềm tự hào và nỗi xót xa tiếc
nuối trước những mất mát của lịch sử và văn hóa dân tộc mình. Có lẽ đó chính là
lý do và động cơ ông viết “Nam
ông mộng lục”. Chữ “mộng” theo ông
giải thích thì chỉ có nghĩa là những sự thực lịch sử đã qua nhưng đến
nay còn ít người biết đến: “Nhân vật trong sách, xưa kia rất phong phú, chỉ vì
đời thay việc đổi, dấu tích hầu như không để lại, thành ra còn mỗi một mình tôi
biết chuyện và kể lại mà thôi, thế không phải mộng là gì?” Trong lời tựa cuốn
sách, ông còn viết rằng: “…nhân vật cõi Nam Giao từ xưa đã đông đúc, lẽ nào vì
nơi hẻo lánh mà vội cho là không có nhân tài! Trong lời nói, việc làm, trong
tài năng của người xưa có nhiều điều khả thủ, chỉ vì qua cơn binh lửa, sách vở
bị cháy sạch, thành ra những điều đó đều bị mất mát cả, không còn ai được nghe,
há chẳng đáng tiếc lắm sao? Nghĩ tới điểm này tôi thường tìm ghi những việc cũ,
nhưng thấy mất mát gần hết, trong trăm phần chỉ còn được một hai; bèn góp lại
thành một tập sách, đặt tên là Nam Ông
mộng lục, phòng khi có người đọc
tới; một là để biểu dương các mẩu việc thiện của người xưa, hai là để cung cấp
điều mới lạ cho người quân tử,…”
Theo
Từ điển văn học Việt Nam (từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX ) thì Nam ông mộng lục gồm 31 thiên
nhưng thiếu ba thiên, nay chỉ còn lại 28 thiên. Mỗi thiên nói một chuyện ở Việt
Nam
thời Lý Trần:
1-Nghệ vương thủy
mạt : đầu đuôi truyện Trần Nghệ Tông.
2-Trúc Lâm thị
tịch: cái chết của Trần Nhân Tông, hiệu Trúc Lâm.
3-Tổ linh định
mệnh: chuyện linh hồn ông là Trần Nhân Tông định ngôi
vua cho cháu là Trần Minh Tông.
4-Đức tất hữu vị: chuyện Trần Minh Tông làm vua.
5-Phụ đức trinh
minh: chuyện vợ vua Trần Duệ Tông đi tu.
6-Văn táng khí
tuyệt: chuyện con gái Trần Thái Tông nghe tin cha mất đã
kêu gào đến tắt thở mà chết.
7-Văn Trinh ngạnh
Trực: chuyện về tính thẳng thắn cứng rắn của Chu Văn
An.
8-Y thiện dụng
tâm : chuyện Phạm Công Bân một thày thuốc giỏi.
9-Dũng lực thần
dị: chuyện Lê Phụng Hiểu sức khỏe hơn người, có công
đánh giặc.
10-Phu thê tử tiết: chuyện hai vợ chồng Ngô Miễn tự tử khi quân Minh thắng.
11-Tăng đạo thần
thông: chuyện về tài trừ ma, diệt yêu quái của sư Giác
Hải và đạo sĩ Thông Huyền.
12-Tấu chương minh
nghiệm: chuyện về việc cầu tự cho Trần Thái Tông sinh ra
Trần Nhật Duật và việc cầu tăng tuổi thọ cho Trần Nhật Duật.
13-Áp lãng chân
nhân: chuyện đạo sĩ họ La dùng pháp thuật dẹp yên sóng
gió cho vua Lý Thái Tông vượt biển đi đánh Chiêm Thành năm 1044.
14-Minh Không thần
dị: chuyện nhà sư Nguyễn Minh Không có phép lạ chữa
bệnh cho vua Lý Thần Tông.
15-Nhập mộng liệu
bệnh: chuyện nhà sư Quán Viên bằng cách nằm mộng mà
chữa được bệnh đau mắt cho vua Trần Anh Tông.
16-Ni sư đức hạnh: chuyện về đức hạnh của ni sư Tuệ Thông đời Trần.
17-Cảm khích đồ
hành: chuyện Trần Đạo Tái, con của Trần Quang Khải, vì
cảm phục Trần Nhân Tông mà chỉ đi bộ không cần ngựa xe.
18-Điệp tự thi
cách: nói về kiểu thơ điệp tự của Trần Thánh Tông.
19-Thi ý thanh tân: nói về những bài thơ hay của Trần Nhân Tông tức Trúc Lâm đại sĩ trong
tập thơ Đại hương hải ấn của ông.
20-Trung trực
thiện chung: nói về tình trung trực, tiết tháo của hai anh em
Phạm Ngộ, Phạm Mại.
21-Thi phúng trung
gián: nói về việc Trần Nguyên Đán làm thơ ngụ ý bóng
gió để khuyên can Trần Nghệ Tông.
22-Thư dụng tiền
nhân cảnh cú: nói về việc Nguyễn Trung Ngạn làm thơ viếng Sầm
Lâu(tức Trần Toại), tác giả Sầm Lâu tập.
23-Thi ngôn tự phụ: nói về thơ và tính cách Nguyễn Trung Ngạn.
24-Thi tửu kinh
nhân: nói về Hồ Tông Thốc uống rượu khỏe, làm thơ
nhiều.
25-Thi triệu dư
khương: nói về Nguyễn Thánh Huấn, ông ngoại của Hồ Quý
Ly, có bài thơ dự báo phúc trạch của con cháu.
26-Thi xứng tướng
chức: nói về bài thơ tiễn sứ nhà Nguyên của Trần Nghệ
Tông lúc còn làm tể tướng.
27-Thi thán trí quân: nói về bài thơ tự thán để khuyên vua của Trần Nguyên Đán.
28-Quý khách tương
hoan: nói việc tướng Mạc Ký nhà Trần làm thơ tiễn sứ
nhà Nguyên là Hoàng Thường.
Nam ông mộng lục là tác phẩm
đầu tiên của người Việt Nam
viết ở nước ngoài. Theo lời tựa của tác giả thì sách viết xong năm 1438 (Chính
Thống năm thứ 3). Đầu sách có bài tựa viết năm 1440 (Chính Thống năm thứ 5) của
Hồ Huỳnh, quan Thượng thư đồng triều với Hồ Nguyên Trừng. Cuối sách có bài hậu
tự viết năm 1442(Chính Thống năm thứ 7) của Tống Chương, một người Việt làm
quan triều Minh, có thể đây là năm sách được khắc in lần đầu. Năm 1920, sách
được in lại, có thêm bài bạt của Tôn Dục Tú.
Sau
đây chúng tôi xin giới thiệu bản dịch một số thiên viết về các nhân vật lịch sử
có di tích ở Chí Linh hoặc có liên quan đến các nhân vật lịch sử ở Chí Linh.
Văn
Trinh, con người cứng rắn và ngay thẳng
(Bản dich thiên
Văn Trinh ngạnh trực)
Chu
An biệt hiệu là Tiều Ẩn, người ở vùng Thượng Phúc 1 đất Giao Chỉ.
Tính ông liêm khiết và cương trực. Ở nhà thường ham thích đọc sách, học vấn
tinh thông, tiếng tăm lừng lẫy xa gần. Học trò đầy cửa, thường vẫn có những
người đỗ đạt và làm quan to. Chu An là người
điềm đạm, ít ham muốn, không đi thi. Khoảng năm Chí Nguyên 2, Trần
Minh Vương 3 có vời ông đến kinh đô trao cho chức Quốc tử Tư nghiệp,
giảng sách cho thế tử 4. Được ít lâu chuyển làm chức Tế tửu nhà Thái
học. Đến khi Minh Vương mất, con là Dụ Vương 5 hay chơi bời, bỏ việc
nước, bỏ quyền thần dần dần làm nhiều điều trái phép, Chu
An nhiều lần can ngăn mà vua không nghe, lại dâng sớ xin chém bảy tên gian thần
đều là hạng quyền thế cả, người đương thời gọi là Thất
trảm sớ.
Tờ sớ dâng lên nhưng không được trả lời, Chu An bèn treo mũ từ quan,
trở về với vườn ruộng. Sau Dụ
Vương mất, trong nước có loạn. Quần thần rước Nghệ Vương về, lập lên làm
vua. Chu An nghe tin ấy, rất đỗi vui mừng, bèn chống gậy đến
kinh đô để yết kiến. Rồi ngay sau đó, ông xin trở về làng, lấy cớ già
nua ốm
yếu, từ chối không nhận chức tước. Nhà vua ban cho hiệu “Văn Trinh tiên
sinh”
và sai người mang rất nhiều lễ vật tiễn đưa về làng. Chẳng bao lâu Chu
An mất ở quê nhà. Nhân dân và kẻ sĩ đô thành vốn
ngưỡng mộ phong cách cao đẹp của ông, không ai là không thở than thương
tiếc.
Trước
đó, trong đám học trò của Chu An có người tuy ra làm quan nhưng vẫn thường đến
thăm viếng ông, lạy bên giường ông, người nào được trò chuyện đôi câu trước lúc
ra về thì lấy làm mừng rỡ lắm. Ai có điều gì không tốt, liền bị ông quở trách,
nhiếc móc gay gắt, thậm chí quát mắng không cho vào nhà. Thanh cao, nghiêm
chỉnh nổi tiếng một thời, lẫm liệt đến thế. Ôi, thật là một con người thiện
vậy.
Tuấn
Nghi và Nguyễn Đức Vân dịch
Ghi chú
1-Thượng Phúc: tức huyện Thượng Phúc, tỉnh Hà
Đông(nay thuộc Hà Tây). Theo ĐVSKTT thì Chu An
người huyện Thanh Đàm(nay thuộc huyện Thanh Trì Hà Nội).
2-Chí Nguyên: niên hiệu của Nguyên Thể Tổ. Hồ
Nguyên Trừng lúc này đang làm quan cho nhà Minh, không dám đề niên hiệu vua
nước Đại Việt.
3-Trần Minh Vương: tức vua Trần Minh Tông, làm vua
từ năm 1314 đến năm 1329.
4-Thế tử: đây chỉ con của Trần Minh Tông.
5-Dụ Vương: tức vua Trần Dụ Tông, làm vua từ năm
1341 đến năm 1369.
Làm
thơ bóng gió hết lòng khuyên can
(Bản dịch thiên Thi phúng trung gián)
Vào
khoảng năm Chí Chính 1, Trần Nguyên Đán ở Giao Chỉ là người thuộc
tôn thất nhà Trần 2 ra làm quan với Dụ Vương 3, giữ chức
Ngự sử đại phu. Vua không siêng chăm việc nước, bọn quyền thần làm nhiều điều
phi pháp, Nguyên Đán luôn can ngăn, nhưng không chịu tiếp thụ. Đến khi Dụ Vương
mất, cháu là Hôn Đức 4 kế lập, thời sự lại càng tồi tệ. Nguyên Đán
dâng thư lên, nhưng trên không trả lời, bèn xin thôi quan mà về. Có gửi cho bạn
bè cùng làm quan trong đài Ngự sử bài thơ rằng:
臺端一去便天厓
回首愴心事事違
九陌塵埃人易老
五湖風雨客思歸
儒丰不振回無力
國势如懸去亦非
今古興忘真可監
諸公何忍諫書希
Đài đoan nhất khứ tiện thiên nhai,
Hồi thủ thương tâm sự sự vi.
Cửu mạch trần ai nhân dị lão,
Ngũ Hồ phong
vũ khách tư quy.
Nho phong bất chấn hồi vô lực,
Quốc thế như huyền khứ diệc phi.
Kim cổ hưng vong chân khả giám,
Chư công hà nhẫn gián thư hy.
Kẻ làm việc ở
đài Ngự sử một khi ra đi là tận chân trời,
Ngoảnh mặt lại
đau lòng thấy việc gì cũng trái mắt.
Bụi bặm đường
kinh thành làm cho người dễ già,
Mưa gió chốn
Ngũ Hồ 5xui khách muốn về ẩn.
Nho phong không
xốc nổi, trở lại cũng bất lực,
Thế nước như treo,
ra đi cũng là sai.
Sự hưng phế xưa
nay thật có thể làm gương,
Các ông sao nỡ
ít đưa thư can ngăn đến vậy!
Về sau, khi
cung đình dấy nạn 6, Nguyên Đán chạy theo Nghệ Vương7.
Vua 8 lên ngôi, lấy Nguyên Đán làm Tư đồ Bình chương sự, ở ngôi Tể
tướng nhiều năm rồi mất.
Ông
là người thông hiểu lịch pháp, từng làm ra sách Bách
thế thông kỷ, trên khảo từ năm Giáp Thìn thời Nghiêu, dưới tới
Tống, Nguyên; nhật thực, nguyệt thực, triền độ các vì sao đều phù hợp với sách
cổ; phụng đạo tinh luyện, cầu mưa có ứng nghiệm. Tự lấy hiệu là Băng Hồ tử.
Tuấn
Nghi dịch
Ghi chú
1-Chí Chính: niên hiệu cuối cùng của Nguyên Thuận
Đế, từ 1314 đến năm 1368.
2-Trần Nguyên Đán là cháu tằng tôn của Trần Quang
Khải(1241-1294).
3-Dụ Vương: chỉ Trần Dụ Tông, làm vua từ năm 1341
đến 13 69.
4-Hôn Đức: tức Dương Nhật Lễ.
5-Ngũ Hồ: một thắng cảnh nằm trong địa phận hai
tỉnh Giang Tô và Triết Giang bên Trung Quốc.
6-Dấy nạn: chỉ việc cha con Nguyên Trác và hai con
của Công chúa Thiên Ninh mưu giết Dương Nhật Lễ không thành, bị Dương Nhật Lễ
quật lại. Sự việc xẩy ra như sau: Vào một đêm tháng 9 năm Canh Tuất(1370), cha
con Nguyên Trác và hai con của Công chúa Thiên Ninh, đem người tông thất vào
trong thành định giết Dương Nhật Lễ, nhưng Nhật Lễ đã trèo qua tường, nép mình
dưới cầu mới, không ai lùng thấy, đều phải bỏ về. Sáng hôm sau Nhật Lễ vào
cung, sai người chia đi bắt các kẻ chủ mưu, cộng cả thẩy 18 người đem giết cả.
7+8- Nghệ Vương, Vua: đều chỉ Trần Nghệ Tông làm
vua từ 1370 đến năm 1372.
27/9/2012
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét