Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Năm, 8 tháng 9, 2011

NÉT RIÊNG TRONG THƠ HÀI ĐỖ ĐÌNH TUÂN

Vũ Thị Song Thu
(tiếp theo)

Vẫn giọng thơ hài ấy nhưng khi với sang lĩnh vực xã hội, đề cập đến mặt trái của nó thì tiếng thơ Đỗ Đình Tuân đã trở thành tiếng nói phê phán linh hoạt, sắc sảo và không kém phần quyết liệt dẫu chẳng cần “đao to búa lớn” gì.Ví như nói đến vấn đề môi trường, có khi ông bắt đầu bằng cảnh “lẻn lên trời ghẹo trăng” của một gã đàn ông khi vợ vắng nhà để rồi dẫn ta tới nghe lời than thở của Hằng Nga về việc “ Tầng Ô- Dôn để thủng rồi/ Ùn ùn khí thải cho trời nóng lên/ Rừng thì chặt phá triền miên / Nước dâng bão lũ... đồng điền hòng chi” (Ghẹo trăng); có khi ông lại mượn lời Trời mắng để bộc lộ trực tiếp nỗi giận dữ của TRỜI- ĐẤT cũng là để phê phán  việc phá hoại môi trường của con người và chỉ ra tác hại ghê gớm mà con người phải hứng chịu khi tàn phá môi trường “Biển xanh bay để dầu loang/ Rừng xanh bay phá: đào vàng bới nhôm/ Trời xanh bay nhả khói om/ Lấy chi bay thở bay dòm hả bay?” (Trời mắng). Qua mấy câu thơ trên, ta thấy tất cả những gì xanh tươi, đẹp đẽ nhất của trời, của biển, của rừng bỗng bị con người làm cho ô nhiễm biến dạng đến thê thảm.
 Khi viết về những hủ tục trong xã hội thơ Đỗ Đình Tuân vừa như cảnh báo lại  đầy cảm thông và xẻ chia . Bài thơ “Thiếp...thiếp...!”đã thể hiện khá rõ điều đó:
                   Một ngày một cái thiếp mời
                   Miếng giò chát chát, miếng xôi nồng nồng
                   Một ngày hai chiếc thiếp hồng
                   Dẫu trời không rét thì lòng vẫn run
                   Một ngày ba tiệc thành hôn
                   Bảy vía xuống đất, ba hồn lên mây
                   Một ngày bốn thiếp đến tay
                   Gọi xe cấp cứu... chuyến này nguy to!!!
Đúng là hiện nay, trong xã hội ta, hủ tục cưới xin đã  trở nên lố lăng rất thiếu văn hóa và lãng phí vô cùng Nào là một số xếp lợi dụng chức quyền coi việc tổ chức đám cưới như một cơ hội hợp pháp để thu nhận phong bao của cấp dưới nên mở ra rõ to. Dân thường thì vì sĩ diện, vì “Con gà tức nhau tiếng gáy” nên dẫu chẳng lợi lộc gì (chỉ tổ mệt người, có khi ế cỗ còn méo mặt vì lỗ vốn đã đành lại bị cười chê là ăn ở thế nào mà mời người ta cũng không đến) nhưng vẫn cứ làm to, cứ mời nhiều. Tôi chẳng biết ở các thành phố lớn thì thế nào chứ từ vùng nông thôn đến thị trấn, thị xã thì rặt một kiểu tổ chức đám cưới cỡ từ vài chục đến hàng trăm mâm với các món “sơn hào hải vị” cứ ê hề, tú ụ chẳng thể nào mà ăn cho hết được. Người bằng vai phải lứa với thày mẹ cô dâu, chú rể đến dự đám thì cứ ăn xong, bỏ phong bao vào chiếc hộp hình trái tim, rồi ra về chứ chẳng biết mặt ngang, mũi dọc cô dâu, chú rể cụ thể thế nào. Ai tò mò cũng chỉ nhìn họ từ tấm ảnh vốn đã xử lý qua vi tính nên chẳng còn giống người thật ở ngoài đời mấy nỗi. Cho nên, sau ngày đám cưới dẫu có gặp nhau cũng chẳng ai nhận ra ai để mà chào hỏi  cho phải phép. Còn đa phần là đám thanh niên và người ruột thịt đôi bên dự lễ tổ chức thì lại phải chịu cảnh inh tai nhức óc bởi tiếng loa đài quá cỡ, tiếng thao thao bất tuyệt của người chủ hôn; cảnh nhảy nhót vô lối lộn xộn của một số thanh niên bốc lửa xen lẫn với những tiếng yêu cầu cô dâu chú rể “hôn nhau đi” cứ loạn cả lên. Không những thế, họ còn phải chứng kiến cảnh đôi bên gia đình trao quà cho con cái nào là vòng vàng nhẫn vàng, tiền ta, tiền đô cứ như một cuộc đua nhau giễu võ dương oai khoe tiền khoe của, đến chướng! Khổ nhất là, một số gia đình không có của cho con, nhưng lại sợ thiên hạ chê cười, sợ muối mặt với thông gia nên đành phải đi thuê vàng để đeo lên người cho con, rồi sau hôn lễ lại tháo ra mang trả hiệu. Nghe đâu tiền thuê đó cũng mất kha khá. Thật là một chuyện cười ra nước mắt. Cho nên, những người được mời dự đám cưới vốn chẳng vui mừng gì về mặt tinh thần đã đành mà còn phải lo lắng rất nhiều về mặt kinh phí nữa. Cứ tính xoàng nhất, hiện nay, ở vùng nông thôn mỗi lần dự đám cũng phải trăm ngàn, còn phố xá thì đôi, ba trăm, tùy theo đám tổ chức tại gia hay tại khách sạn.Với thu nhập của nông dân hay công chức thì đó quả là món tiền không nhỏ. Nhưng biết làm sao!  Bài Thiếp...thiếp!!! của Đỗ Đình Tuân đã bắt rất trúng cái gánh nặng đè trên vai mọi người, cái nỗi lo không thể tránh khỏi của nhiều người khi nhận thiệp mời dự cưới. Ta thấy nỗi lo cứ tăng dần lên, gánh nặng cứ oằn mãi xuống theo nhịp gia tăng của hủ tục cưới xin. Ai cũng  khiếp mà không ai tránh khỏi. Với những câu thơ giàu sức gợi từ chỗ mới chỉ thấy: “ Miếng giò chát chát, miếng xôi nồng nồng” đến “ Tuy trời không rét thì lòng vẫn run” rồi “ Bảy vía xuống đất ba hồn lên mây” và cao trào nhất là : “Gọi xe cấp cứu chuyến này nguy to”, tác giả đã thể hiện thật hài hước và cũng thật tinh tế diễn biến tâm trạng âu lo của con người trước hủ tục cưới xin trong thời kì bão giá. Nếu nói bài thơ như một tiếng kêu bức xúc thì tiếng kêu đó hiện hình ngay từ nhan đề “Thiêp...thiếp!!!” và ngày càng gia tăng trong toàn bài.
Đâu chỉ có những hủ tục, trong xã hội còn ối kẻ bị đồng tiền làm mờ mắt nên đã trở thành thất đức ngay khi đang làm trong ngành nghề cần nhiều đức độ nhất. Với bài “Y đức”, Đỗ Đình Tuân đã miêu tả hai thái độ khác nhau của ngài bác sĩ: Gặp thày ở bệnh viện công /Nét mặt lạnh lùng...rợn gáy người ta / Gặp thày trong bệnh viện nhà / Lời chào tiếng nói mặn mà khác ngay” rồi ông kết luận: “Tiền nào của ấy, mới hay / Ai mua “Y đức” đến thày bán cho”. Trời đất ơi! Đến cả đức độ của những con người vốn được xã hội tôn vinh hết mực coi như mẹ hiền (Lương y như từ mẫu) mà vị bác sĩ kia cũng mang ra ngã giá bán mua, cũng sẵn sàng cân đong đo đếm bằng đồng tiền được sao? Câu thơ “Ai mua “Y đức” đến thày bán cho” đã động chạm tới một hiện thực đau xót của xã hội khi mà đông tiền trở thành sức mạnh vạn năng có thể bán mua được mọi thứ và  làm băng hoại  cả đạo đức con người.
Tiếng nói phê phán trong thơ Đỗ Đình Tuân càng trở nên mạnh mẽ, sâu sắc và quyết liệt  hơn khi đề cập đến những thói hư tật xấu của một số kẻ cầm cân nảy mực trong xã hội nhưng đã thoái hóa, biến chất.Có khi, đó là những kẻ nói mà không làm, nói rõ hay, rõ to tát nhưng là nói để mà quên chứ không hề mang đến chút thay đổi nào. Bài thơ “Chầu Diêm Vương” của ông  là một ví dụ:   “Quê tôi có hội làm vườn/ Mốc meo từ  lễ khai trương đến giờ/ Tiếng thì còn đó trơ trơ/ Chấp hành chấp tỏi... bây giờ chuồn đâu/ Hội viên quên hội đã lâu/ Thôi thì cho Hội đi chầu Diêm Vương” (Chầu Diêm Vương). Ở đây, ông không dùng lối đả kích  trực tiêp như kiểu “Trời mắng”; lời thơ cũng không gay gắt kiểu  lên giọng xỉ vả, chát chúa hay lối dạy đời... mà chỉ thông qua sự thật rất cụ thể về việc thành lập Hội làm vườn nơi quê hương ông và bằng  giọng điệu thơ châm hài hước nhẹ nhàng ông đã bày tỏ một  thái độ  rất rõ ràng quyết liệt, quyết liệt ngay trong cách chất vấn “Chấp hành chấp tỏi... bây giờ chuồn đâu” đến ý  muốn đập chết tươi , muốn xóa bỏ hẳn cái cách nói mà không làm ấy đi “Thôi thì cho Hội đi chầu Diêm Vương”. Còn đối với những kẻ hay ăn đút lót, tác giả lại có cách đả kích khác. Ông đưa chúng lên rất cao để rồi giáng xuống thật đau. Bài “Thần ăn đất” rất tiêu biểu cho cách đả kích trên:
                   Cúng ngài “ Thần chết” không xơi
                   Dẫu mâm cỗ lớn...dẫu mời thiêt tha
                   Hương tàn là lại bưng ra
                   Vợ con bầu bạn giữa nhà đỉnh đương
                   Tội gì mà chẳng thắp hương
                   Trước là thơm mũi...sau trương dạ dày
                   Cúng ngài “Thần sống” mới gay
                   Hương thơm đếch ngửi, cỗ đầy...không ăn
                   Biết điều chớ có lăn tăn
                   Cúng ngài đâu phải thứ văn tế ruồi
                   Không cây, không chỉ thì thôi
                   Xẻo vài “ miếng đất” cho vui lòng thần
Có lần tôi được nghe một ông già, sau này là bạn của Đỗ Đình Tuân nói rằng: “Tớ ra mua báo Hải Dương, đọc được bài thơ “Thần ăn đất” thích quá liền mua thêm sáu tờ nữa, mang về cho các ông bạn, ai cũng bảo cái lão Tuân này ở đâu mà viết rất trúng vấn đề bức xúc nhất trong xã hội hiện nay và viết  thú đến thế! Sau này mới biết ông ở Chí Linh rồi lại biết ông phụ trách tổ thơ Câu lạc bộ Côn Sơn, bọn tớ ở tận Hải Dương cũng về đây xin nhập hội đấy”. Thì ra văn thơ quả là một nhịp cầu gắn kết  những con người “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu” lại với nhau như một lẽ tự nhiên vậy.
Xưa nay, dùng văn thơ hài hước để châm biếm, phê phán, đả kích là cái thường gặp nhưng đọc thơ Đỗ Đình Tuân ta lại thây, nhiều khi ông dùng thơ hài hước để  khẳng định, ngợi ca mà vẫn cứ hấp dẫn như thường. Ví như bài “ Nồi cụt quai” chẳng hạn:
                   Nhiều năm trước là quà đám cưới
                   Nồi trắng tinh, bọc tờ giấy mới tinh
                   Nấu bữa cơm đầu tiên cho một gia đình
                   Nồi mới chỉ xám đen đi một ít
                  
                   Trải qua bao lửa nồng nước buốt
                   Đến bây giờ nồi cụt cả hai quai
                   Vung vứt đằng vung
                   Nồi vứt đằng nồi
                   Vung đem đậy chum gạo
                   Nồi vứt ngoài giếng khơi
                   Có khi để xó bếp
                   Có khi quăng góc vườn...

                   Trông xấu xí ai cũng coi thường
                   Chỉ được cái việc gì cũng đảm
                   Sáng sớm ra vợi cám
                   Nửa buổi về sống cua
                   Độ đến non trưa lại đi vo gạo
                   Ai sai ai bảo
                   Cụt Quai cũng làm
                   Nhà có đám thì đựng xương
                   Có khi nấu cả nhựa đường
                   Đen trong đen ngoài nhễ nhại...

                   Ai cũng bảo Cụt Quai là dại
                   Già mõ đời có biết cái chi chi
                   Cụt Quai cũng chỉ cười khì
                   Cụt Quai cũng chửa vứt đi... còn dùng
                   Dẫu thôi nước buốt lửa nồng
                   Sớm hôm vẫn giúp vợ chồng người ta
Đúng là tác giả đã thổi hồn cho chiếc nồi cụt quai khiến nó trở nên sống động như một thực thể rất thân phận trong  cuộc đời này. Trước hết, ta thấy nồi cụt quai có nguồn gốc thật sang trọng, hình thức thật đẹp đẽ : « Nhiều năm trước là quà đám cưới / Nồi trắng tinh, bọc tờ giấy mới tinh » Thế rồi, nồi bước vào cuộc sống của con người. Trải bao  ấm lạnh, thăng trầm, mà nó thành ra hỏng hóc, xấu xí « Trải qua bao lửa nồng nước buốt/ Đến bây giờ nồi cụt cả hai quai ». Nếu trước đây, nồi được trân trọng bao nhiêu thì bây giờ, nồi lại bị xem nhẹ bấy nhiêu, người ta vứt vạ vứt vật nó ở nơi góc vườn, xó bếp. Nhưng lạ lùng thay, lúc này, nồi không rỉ ra, tan đi hay trở thành vô tích sự mà ngược lại, nó trở nên đảm đang, đa năng và hữu ích vô cùng trong vai trò mới  « Trông xấu xí ai cũng coi thường/ Chỉ được cái việc gì cũng đảm / Sáng sớm ra vợi cám/ Nửa buổi về sống cua/ Độ đến non trưa lại đi vo gạo (...) nhà có đám thì đựng xương/ Có khi nấu cả nhựa đường/ Đen trong, đen ngoài nhễ nhại » Cứ thế, nồi có ích một cách hồn nhiên, vô tư trước sự bàn tán chê bai của người đời « Ai cũng bảo Cụt Quai là dại/ Già mõ đời có biết cái chi chi/ Cụt Quai cũng chỉ cười khì/Cụt Quai cũng chửa vứt đi còn dùng/ Dẫu thôi nước buốt lửa nồng/ Sớm hôm vẫn giúp vợ chồng người ta ».Từ thân phận cụ thể của nồi cụt quai, một triết lý nhân sinh thật sâu sắc được đặt ra. Đó là,ở bất cứ hoàn cảnh nào, cương vị nào, con người vẫn sẽ trở nên hữu ích, cao đẹp, nếu họ biết sống là chính mình và làm việc hết mình. Trong thực tế cuộc đời, ta đã gặp biết bao người sống như thế. Đó là những thương binh tàn nhưng không phế,  là các cụ già đã về hưu vẫn sống rất mẫu mực thực sự là tấm gương sáng với con cháu và mọi người xung quanh, nhiều cụ vẫn tham gia công tác địa phương, chỉ mong được góp sức mình cho quê hương ; đó còn là những người tật nguyền vẫn không cam chịu số phận hẩm hiu mà luôn vươn lên , tự khẳng định bản thân và sống rất hữu ích...Thật đáng quý biết bao! Có thể nói «Nồi Cụt Quai» là một hình tượng nghệ thuật độc đáo, sống động, một thi phẩm rất hài hước, hóm hỉnh và thấm đẫm chất nhân văn.
Qua tìm hiểu một số bài thơ của Đỗ Đình Tuân, tôi thấy dù giễu cợt, phê phán hay tự sự tâm tình, thi phẩm nào của ông cũng thật giản dị, trong sáng, dễ hiểu nhưng không dễ dãi mà ngược lại khá lắng đọng sâu sắc, hóm hỉnh, rất giàu sức khơi gợi và quan trọng nhất là nó đã chứa đựng được cái hồn cốt của tác giả, một con người thật dung dị mộc mạc, xuề xòa nhưng vẫn rất tinh tế, giàu tình yêu thương và lắm suy tư. Tất cả những cái đó tạo thành nết riêng không thể lẫn trong thơ Đỗ Đình Tuân. Tuy nhiên dường như thơ ông còn ít những yếu tố lạ, còn thiếu những câu thơ kì ảo bất ngờ kiểu xuất thần. Có lẽ, vì vậy mà nó ít lung linh, biến hóa và độ lan tỏa cũng chưa rộng lớn lắm chăng? Cố nhiên đó chỉ là những ý kiến rất chủ quan của cá nhân tôi, một độc giả chứ không phải một nhà phê bình nghiên cứu. Cho nên rất có thể lời bàn của tôi sẽ chưa tới, chưa trúng ý thậm chí còn có khi sai lệch ý nữa. Tôi chỉ mong mình đã phần nào chia xẻ được với tác giả hoặc là người đồng sáng tạo với tác giả như một bạn đọc nghiêm túc là đã phấn khởi lắm rồi.
                                
Sao Đỏ ngày 11-8-2011
                                      

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét