Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Năm, 15 tháng 9, 2011

NGẪM NGHĨ VỀ THƠ LỤC BÁT

 Đỗ Đình Tuân

                                             Bài 3
                      Lục bát sau truyện Kiều



Lục bát sau truyện Kiều phát triển đa dạng hơn, nhiều phong cách hơn và có xu hướng kết hợp sử dụng cả hai lối Lục bát truyện Kiều và Lục bát dân gian. Ngay trong cùng một tác giả cũng vậy. Tố Hữu là một ví dụ rõ nhất. Bên cạnh rất nhiều bài làm theo lối Lục bát truyện Kiều, ông cũng có không ít những bài làm theo lối Lục bát dân gian:
-Bà bủ nằm ổ chuối khô
Bà bủ không ngủ bà lo bời bời...
                           (Bà bủ)
-Em là con gái Bắc Giang
Rét thì mặc rét nước làng em lo
Nhà em phơi lúa chưa khô
Thóc chửa vào bồ, sắn thái chưa xong
Nhà em con bế con bồng
Em cũng theo chồng đi phá đường quan...
                          (Phá đường)
Rồi lối biến thể vần trắc, được thay thế bằng lối Lục bát dán thất:
Con ra tiền tuyến xa xôi
Yêu bầm yêu nước, cả đôi mẹ hiền
Nhớ thương con bầm yên tâm nhé
Bầm của con mẹ vệ quốc quân.
                        (Bầm ơi)
Gần đây xu hướng đổi mới thơ Lục bát càng được xúc tiến tích cực. Hầu hết người làm thơ Lục bát, chuyên nghiệp và  không chuyên nghiệp, nổi tiếng và chưa nổi tiếng, hình như đều cố gắng tìm kiếm sự đổi mới cho thơ Lục bát. Có thể kể ra mấy xu hướng chính sau:
-Xu hướng thay đổi cách trình bày dòng thơ. Theo cách này, bài Lục bát không trình bày theo lối truyền thống  trên 6 dưới 8 nữa, mà trình bày theo nhịp thơ, kể cả những cách ngắt nhịp theo ngẫu hứng chủ quan của tác giả. Cách trình bày này đã làm hình thức hiển thị của bài Lục bát đa dạng và lạ mắt hơn nhiều. Khi thì nom chúng giống như một bài thơ leo thang, khi thì chúng được xếp thành như một hình tam giác, rồi một bông hoa...Chẳng hạn:
                  Một mình ngồi với một mình
                  Một mình nhấp chén
                  Một mình đầy vơi
                  Một người ngồi ngắm một người
                  Một chênh chao bóng
                  Một cười ngất ngư
                  Một thưa
                  Một gọi
                  Một ừ
                  Hết thời võng lọng…còn dư cái buồn
                          (Một mình đối bóng-Bùi Ngọc Trình)
-Xu hướng biến hình thành một thể thơ khác. Tôi mới thấy có một trường hợp của nhà thơ Nguyễn Đức Mậu. Đó là bài Câu Hát Tản Mạn. Xin chép ra đây để cùng tham khảo:
Lệ thường núi mọc trông gần đi xa
Tuổi hai mươi đấy chống gậy như già
Trẻ trai leo dốc hóa ra lưng còng
Đi rừng bạn hỡi chớ ngại đường vòng
Chớ e lối tắt lắm dòng suối sâu
Qua cầu nước dựng chớ đứng trông cầu
Run tay rơi mũ biết đâu mà tìm
Mầu cây mầu lá chợt hóa trái mìn
Rêu xanh một khoảng lặng im đánh lừa
Nhìn trời đoán nắng nghe hoẵng báo mưa
Đói lòng ăn trái me chua khế rừng
Nắng nung cổ khát bỏng rát da lưng
Muốn tìm mạch nước tới vùng xanh cây
Trăng lên trăng lặn sao vắng đêm dầy
Thương con đom đóm vẫn bay chỉ đường
Muốn thổi cơm chín bịt kín ống bương
Ngủ đêm rừng rậm võng thường treo cao
Lên đèo gió ướt, gió lướt ào ào
Mồ hôi rơi ngược tan vào trong mây
Xuống khe gậy chống rát bỏng bàn tay
Vải quần đầu gối vá dầy lại khâu
Đi rừng kham khổ nỗi nhớ bền lâu
Mấy ai hiểu hết lòng sâu của rừng.
Nếu xu hướng thể nghiệm này thành công, được nhiều người thích và làm theo, thì ta sẽ có thêm một thể thơ mới thoát thai từ thơ Lục bát đó là thơ Bát bát, hoàn toàn khác với Thơ tám chữ vốn đã có trong thơ ca truyền thống.
-Xu hướng lạ hóa ngôn từ trong thơ. Theo cách này, người làm thơ thường tìm đến những kết hợp từ mới chưa hề có để làm lạ, làm mới thơ.  Khá nhiều người tìm tòi theo hướng này . Sau đây chỉ là một ví dụ nhỏ:
Một trời hoang tưởng lơ mơ
Thoáng hồn ngọc bích ngẩn ngơ lối tình
Ngước trông mây trắng siêu hình
Lá xưa cũng tự lay mình mà thu.
                               (Thu-Hoàng Thế)
Xu hướng này quả là có tạo ra được sự mới, sự lạ, có làm cho người đọc dừng lại lâu hơn ở dòng thơ, câu thơ... tìm tòi, nghĩ ngợi. Nếu đem so với thơ hiện đại và hậu hiện đại thì còn dễ đọc chán. Nhưng dường như nó vẫn chưa tự nhiên và còn nhẹ. Từ những câu thơ hay, những bài thơ hay, những ngẫu hứng, những tìm tòi thành công, ta sẽ thấy ở trong đó cái mới với cái cũ, cái quen với cái lạ, cái thường và cái diệu...vẫn nằm chung với nhau, gắn bó trong tổ ấm  “thi ảnh, thi nhạc”:
Bao nhiêu là thứ bùa mê
Cũng không bằng được nhà quê của mình
Câu thơ nấp ở sân đình
Nhuộm trăng trăng sáng nhuộm tình tình đau
Nhuộm buồn những hạt mưa mau
Thành sao nở trằng vườn cau trước nhà
Nhuộm hương của các loài hoa
Thành mơn mởn tóc đuôi gà cho em.
                            Đồng Đức Bốn
Đã có biết bao nhiêu những câu thơ Lục bát viết về nhà quê rồi ? Vậy mà những câu thơ trên vẫn làm ta sửng sốt về cái mới cái lạ của nó. Nhưng đọc rồi, tĩnh tâm lại ta vẫn thấy nó gần gũi và quen thuộc lắm,... mà đẹp đến vô ngần. Ta sung sướng và hào hứng là vì thế. Cho nên có người từng cho rằng không nên phân biệt thơ cũ với thơ mới, thơ hiện đại với thơ không hiện đại,... mà chỉ nên phân biệt thơ hay và thơ dở, không phải là không có lý. Thơ hay sẽ sống mãi trong lòng công chúng và xây đài vinh quang cho nhà thơ. Thơ chưa hay thì sau khi hoàn thành “nhiệm vụ được giao” sẽ rơi vào quên lãng. Còn thơ dở thì tất nhiên sẽ chết yểu, không có bất kỳ một phương thuốc nào  có thể cứu chữa được. Cái định mệnh khắt khe này của thơ mãi mãi là bất biến.
    
4/9/2011
  

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét