Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Tư, 30 tháng 4, 2014

Dịch thơ Nguyễn Du 9

Bài 8

Xuân dạ

春夜
Xuân dạ
黑夜韶光何處尋
Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm
小窗開處柳陰陰
Tiểu song khai xứ liễu âm âm
江湖病到經時久
Giang hồ bệnh đáo kinh thời cửu
風雨春隨一夜深
Phong vũ xuân tùy nhất dạ thâm
羈旅多年燈下淚
Ki lữ đa niên đăng hạ lệ
家鄉千里月中心
Gia hương thiên lí nguyệt trung tâm
南臺村外龍江水
Nam Đài (1) thôn ngoại Long Giang (2) thủy
一片寒聲送古今
Nhất phiến hàn thanh tống cổ câm (kim)

Dịch nghĩa: Đêm xuân

Đêm đen, ánh sáng xuân tìm đâu
Cửa sổ nhỏ mở ra liễu âm u
Chốn giang hồ bệnh đến đã lâu
Trời mưa gió xuân theo đêm sâu
Khách xa nhà nhiều năm, nước mắt rớt dưới đèn
Quê nhà vạn dặm, lòng gởi vầng trăng
Nước sông Lam ngoài thôn Nam Đài
Một tiếng vang lạnh tiễn cổ kim

Dịch thơ: Đêm xuân

Cửa nhỏ âm âm liễu rủ mềm

Đêm xuân ánh sáng biết đâu tìm

Giang hồ cuộc sống mang thêm bệnh

Mưa gió mùa xuân cộng với đêm

Vạn dặm quê nhà lòng gửi nguyệt

Lâu năm ly khách khóc bên đèn

Nam Đài ngoài xóm sông Lam chảy

Một tiếng lạnh vang tiễn cổ kim.

                      Đỗ Đình Tuân
                             (dịch thơ)

Chú thích:

(1) Nam Đài: Tên xóm nhà Nguyễn Du.
(2) Long Giang: Tức Thanh Long giang, từ ngã ba Hưng Nguyên trở xuống.
29/4/2014
Đỗ Đình Tuân

30/4- Những ký ức

"Ngày 5/12/1975
Bắt đầu cuộc hành trình về Nam. Từ Hà Nội mình đi xe ô tô của các chú bộ đội. Xe hỏng, đỗ lại ở Quảng Bình chờ xe của ba sau 1 đêm đi liên tục. Dọc đường, đoàn xe chở bộ đội ra Bắc vẫn đi liên tục, từng hàng dài.
Ngày 11/12/1975
Nghỉ lại Cửa Tùng 2 ngày. Cùng Trung đi bắt còng. Lần đầu biết thêm một loài hoa gọi là hoa ngũ sắc, 5 màu trên một bông hoa, mùi nó ngai ngái, thân hơi rặm.
Lại tiếp tục lên đường trong màn mưa mù mịt. Qua cầu Hiền Lương, đẹp quá! Cầu tuy ngắn nhưng rất đẹp. Nó sơn một màu biểu thị sự thống nhất của 2 miền Nam Bắc. Mình cứ thầm nhẩm câu thơ của Tố Hữu: “Sông Bến Hải bên bồi bên lở/ Cầu Hiền Lương bên nhớ bên thương”
Ngày 13/12/1975
Tới Nha Trang, thành phố biển. Nhưng biển thật là sợ. Từng đợt sóng cao, cao ơi là cao và to, cứ xoáy ào xuống ầm ầm, bụi nước mù mịt như khói ấy. Mình lại được uống nước dừa nạo, ngon thật."

.....  
Trung và Vân Anh  - 1975

Vậy mà đã 39 năm. Ký ức của hành trình về quê vẫn rõ nét trong mình. Ấn tượng sâu đậm nhất là hình ảnh những đoàn quân nườm nượp trên đường ra Bắc. Cho đến tận tháng 12, nghĩa là sau ngày Giải phóng đã 6 tháng, vậy mà đoàn quân bộ đội ta về phép vẫn dài dằng dặc. Mình cứ liên tưởng đến đoàn quân tổng động viên cho chiến dịch Hồ Chi Minh đã vượt Trường Sơn như thế nào. Sự khác biệt không chỉ ở hướng đi, mà còn ở khí thế. “Quân đi rầm rập như là đất rung” với quyết tâm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước”. Theo ba kể, ngày ấy, bộ đội ta đi bộ từ Quảng Bình, đi ngày đi đêm, lặng lẽ và khẩn trương. Đoàn quân chiến thắng lẫy lừng về thăm gia đình thì được ngồi xe ô tô, hát vang suốt dọc đường đi, ba lô căng phồng và đung đưa những con búp bê rực rỡ.
Những ngày 30/4 sau đó, dù gia đình có rất nhiều biến cố, nhưng cảm xúc của ngày về Nam năm 1975 vẫn làm nóng ran lồng ngực mình.

VA

Đọc…chép…?



Cặp thày có “cuốn cẩm nang”
“Hướng dẫn giảng dạy” rõ ràng không sai
Chép sang giáo án dài dài
Khi lên giảng bài: Thày đọc, trò ghi
Kiểm tra cuối tháng, cuối kỳ…
Học trò chép lại cũng y như thày
Học hành dạy dỗ kỳ thay
Chữ thày cứ việc trả thày là xong !?
30/4/2014
Đỗ Đình Tuân

NƠI CÓ BẠN TÔI

(Tặng Nga)

 
Anh gửi Sài Gòn Nga ở đó
Buổi trưa nào người nữ công nhân
Áo xanh nắng quyện màu tươi đỏ
Diễm lệ ngọt ngào giọt trắng ngân

Tình nặng anh mang mấy nỗi niềm
Biết chờ biết đợi biết cô đơn
Đôi miền nam bắc còn chia cắt
Đau cảnh chia ly, xót dạ mềm

Đã học cấp ba trường phố huyện
Sao còn tơ tưởng chuyện lương duyên
Chiếc đài cắt xéc không thân thiện
Đành bỏ nằm không mặc nỗi phiền

Mấy tháng, mấy năm lòng trĩu nặng
Nhơ thương người thiếu nữ công nhân
Một ngày thành đô vào thăm ấy
Nơi có bạn tôi, nhớ vạn lần.
                                      VN

CHỢ NGƯỜI


Bao nhiêu bờ xôi ruộng mật
Biến thành dự án, sân gôn
Thỏa chí ăn chơi ông lớn
Dân cày thất nghiệp lìa thôn

Dắt díu nhau ra phố thị
Bán thân bán sức kiếm cơm
Ăn xó mó niêu vạ vật
Chợ người đợi việc thật thương


                29-4-2014
                 Song Thu

Ông bà cùng xem trận bán kết hai Cúp c1 châu Âu giữa Rayan Marít và Baienbnichs


Hình ảnh: BÙI TRÁC TRƯỜNG
Ông bà cùng xem trận bán kết hai
Cúp c1 châu âu giữa rayan marít và baienbnichs

Hôm nay ông ngủ buổi chiều
Chắc rằng có điều gì sắp xảy ra
Nhớ rồi! nay ngày thứ ba
Hôm nay bán kết chắc là rất hay
Thế là nửa lít chất cay
Phồng tôm hai gói bà quay tức thì
Ông dặn “bà cứ ngủ đi
Khoảng một giờ rưỡi tôi thì gọi ngay
À nhưng tôi hỏi thế này
Đội nào sẽ thắng đêm nay hả bà?”
Rằng: bán khết một vừa qua 
Sân khách thắng một tạo đà thành công
Sân nhà khan giả chắc đông
Siêu sao Marit chắc ông rõ rồi
Roonanđô đã tuyệt vời
Còn rotbot cũng ngời tài ba
Tôi chắc kết quả sẽ là
Rean sẽ thắng ít là hai không
Cuối cùng rayan thành công
Hai làn tổng cộng bốn không tuyệt vời
Ông rằng tôi chịu bà rôi
Phần thưởng xin chịu đến mười ngày sau
 
 
Hôm nay ông ngủ buổi chiều
Chắc rằng có điều gì sắp xảy ra
Nhớ rồi! nay ngày thứ ba
Hôm nay bán kết chắc là rất hay
Thế là nửa lít chất cay
Phồng tôm hai gói bà quay tức thì
Ông dặn “bà cứ ngủ đi
Khoảng một giờ rưỡi tôi thì gọi ngay
À nhưng tôi hỏi thế này
Đội nào sẽ thắng đêm nay hả bà?”
Rằng: bán khết một vừa qua 
Sân khách thắng một tạo đà thành công
Sân nhà khan giả chắc đông
Siêu sao Marit chắc ông rõ rồi
Roonanđô đã tuyệt vời
Còn rotbot cũng ngời tài ba
Tôi chắc kết quả sẽ là
Rean sẽ thắng ít là hai không
Cuối cùng rayan thành công
Hai làn tổng cộng bốn không tuyệt vời
Ông rằng tôi chịu bà rôi
Phần thưởng xin chịu đến mười ngày sau
                                   
 BÙI TRÁC TRƯỜNG

Thích cỏ dại


Chỉ ngày một tháng tư nói dối thế thôi
Từ hôm sau ai dám ngăn quay trái đất
Biển muôn đời sóng xô chán ngắt
Trăng lặng thầm nhìn xuống buông lơi

Núi cần gì chờ tim đập vỡ đôi
Người ta mang đủ thứ ra băm nát
Ánh bình minh cứ thả tình bát ngát
Chẳng dám ôm vào lòng bỏng thêm ra

Hôm nay đây Cỏ dại đến nhà
Ngắm vườn nghèo ít hoa nhiều lá
Hắn mon men đùa em thích quá
Em thầm nói với anh...Cỏ dại đẹp, rất xanh!

Anh đã về chưa trong giấc ngủ yên lành
Thấy vợ mình cười tươi bên bình hoa Cỏ dại
Giở trang nhật ký ra biết em là Cuội
Chấp gì đâu em vẫn…an bình!

Sắc sắc không không em là vợ chàng
Đua theo anh vui cười không biết mệt
Nhưng già quá tất thành lệt bệt
Lởm khởm tí ti …nay hối lỗi muộn màng

Thích Cỏ dại đẹp, xanh bên em, vợ chàng...  


Hồ Minh Quang

 
 

,

Ý THỨC

Bảy mươi nhưng lão vẫn sung sức
Tỏ rõ là người có ý thức
Trên bảo dưới nghe ai cũng mê
Trong co ngoài duỗi người không bực
Gặp khi cơ nhỡ vẫn yêu thương
Đến lúc khốn khó chẳng hậm hực
Kinh Bắc,xứ Đoài đâu cũng đi
Giao lưu thỏa mái hết đau nhức!!!
                     Nhân Hưng, ngày 26-4-2014
                                    Tạ Anh Ngôi

HỒI ỨC THÁNG TƯ- BI HÙNG "THẦN LỬA" 707



Đã 39 năm trôi qua song  hình ảnh cái ban thờ và năm ngôi mộ gió bên cạnh chiếc xe tăng cháy đen trước cổng Trường Võ bị Thủ Đức vẫn ám ảnh tôi mỗi khi tháng Tư về.

     Trung tuần tháng 5 năm 1975 tôi được đại đội giao cho lái 1 chiếc M48 chiến lợi phẩm lên Bộ tư lệnh quân đoàn 2 lúc đó đang đóng tại cơ sở của Trường võ bị Thủ Đức để triển lãm.          
Mặc dù không có cán bộ chỉ huy đi cùng song vị trí của Trường võ bị Thủ Đức thì tôi vẫn nhớ như in. Nó nằm ngay bên trái đường, cách xa lộ chừng vài chục mét. Sáng 30.4 chúng tôi qua đây còn bị địch bắn vào đội hình nhưng được lệnh bỏ qua, cứ nhằm thẳng Sài Gòn mà tiến. Tuy nhiên, ngồi trong buồng lái tôi vẫn liếc thấy dọc theo hàng rào là hai khẩu hiệu chữ rất to. Ở đầu phía bắc là mấy chữ: “LÁ NGỌC CÀNH VÀNG”, tôi nghĩ bụng chắc trường này chỉ tuyển con em “cán bộ”- con quan chức chính quyền SG hoặc quân lực VNCH vào học mà thôi; còn ở đầu phía nam là mấy chữ “CƯ AN TƯ NGUY”, tôi đoán đó là khẩu hiệu khuyếch trương vị thế của trường đại khái là “ở thì yên lành, có nguy thì đến cứu giúp”. Đi hết chiều dài hàng rào là đến ngã ba Tăng Nhơn Phú. Tôi đoán cổng chính của nó quanh quanh chỗ cái ngã ba này.


Quả nhiên, đến ngã ba Tăng Nhơn Phú tôi rẽ trái vào một đoạn thì thấy cái cổng trường to lừng lững ngay bên tay trái trông rất oai phong. Tuy nhiên, cái thu hút sự chú ý của tôi nhiều hơn lại là xác một chiếc K63-85 cháy đen thui nằm trước cổng. Chiếc xe nằm gần như đối diện với cổng chính của trường, cách cổng chừng vài chục mét, đầu xe hướng chênh chếch về phía xa lộ, một bên xích đứt rời cuộn lại thành một đống phía sau. Ở sườn xe bên phải, ngay đoạn buồng chiến đấu là một lỗ thủng to tướng đút lọt chiếc mũ cối. Các mảnh thép xung quanh lỗ thủng nham nhở, cong queo… Tôi tự nhủ: “Có lẽ là một quả đạn nổ cỡ lớn chứ không phải đạn chống tăng. Vết đạn chống tăng nó gọn chứ không như thế này. Đây là xe bơi nước, thành xe của nó mỏng chỉ độ hơn 10 ly thép nên đạn nổ cỡ lớn là đủ phá được rồi”. Tôi quay lại phía cổng trường thì phát hiện ở phía bên trái (từ ngoài nhìn vào) có một khẩu “Vua chiến trường” 175 mm. Nó nằm ở chỗ hơi thấp và nòng cũng hạ thấp, gần như nằm ngang. Tôi băn khoăn tự hỏi: “Không lẽ chính khẩu pháo kia đã bắn hạ chiếc xe này”. 



Tôi đi vòng sang phía bên kia chiếc xe, mắt vẫn không rời ngôi sao quân hiệu và ba chữ số vẫn còn hiện lên trắng mờ trong cái nền đen kịt. Đó là số 707. Chợt tôi sững lại: ngay cạnh chiếc xe, chỗ ngang với buồng chiến đấu là một cái ban thờ.

Vâng! Đó đúng là một cái ban thờ- kiểu ban thờ thiên mà chúng tôi vẫn gặp từ vùng Quảng Trị trở vào. Một cái chân bằng gỗ tròn to cỡ bắp đùi chôn sâu xuống đất. Trên đỉnh của nó là một mảnh gỗ vuông vắn được be lên 3 phía. Có lẽ người làm ra nó khá vội vàng vì không thấy sơn màu gì cả mà vẫn để gỗ mộc. Trên đó là một cái bát hương làm bằng lon sữa bò lơ thơ vài cái chân hương. Dưới chân ban thờ là mấy mô đất vun cao trông như mấy nấm mộ cũng lác đác vài cái chân hương. Nhìn tất cả còn khá mới nên tôi nghĩ: “Có lẽ cái này được lập ra là để thờ các chiến sĩ trong xe này đây. Mấy nấm đất kia chắc tượng trưng cho mấy ngôi mộ thì phải”. Nhưng rồi tôi lập tức băn khoăn tự hỏi: “Vậy ai là người lập ban thờ và thắp hương cho các đồng đội tôi?”. Rồi cũng lại tôi tự trả lời: “Chắc là dân sở tại ở đây thôi chứ bộ đội ta sẽ không làm thế này”.



Hỏi thăm dân chúng gần đó tôi được biết ông già tên Viên là người đã lập cái ban thờ và thường xuyên hương khói ở đấy. Tôi tìm đến nhà ông và câu chuyện của ông già Viên ngày đó đã ám ảnh tôi suốt cuộc đời:
- Từ mấy ngày trước đó thấy các ông sĩ quan, binh sĩ trong Trường Võ bị ra chơi nói chuyện chúng tôi cũng biết tình hình Việt Nam cộng hòa nguy đến nơi rồi.  Quân trường mấy bữa rày đã điều hết quân lính ra Long Thành chống cự với các chú rồi nên cũng chẳng còn mấy quân lính nữa. Nhưng không ngờ các chú đánh nhanh quá. Sáng sớm hôm 30 tháng Tư, nghe ngoài xa lộ xe chạy rần rần. Tôi chạy ra ngó thấy nhiều xe tăng lắm. Rồi nghe tiếng súng từ trong quân trường bắn ra, súng ngoài xa lộ bắn vào dữ dội. Biết là các chú đánh tới nơi tôi hối bà xã cùng mấy bà bên cạnh kéo sắp nhỏ chạy tuốt vô trong rẫy nằm để tránh tên rơi đạn lạc. Còn mình tôi ở lại trông nhà với lại theo dõi tình hình xem sao. Một chặp sau thì thấy các ổng- ông hất cằm về phía chiếc xe cháy- xuất hiện. Các ổng vừa chạy vừa bắn vào phía cổng quân trường một hồi rồi lao tới húc tung cổng xông thẳng vào trỏng. Tôi đứng đây ngó vào thấy các ổng vừa chạy dọc con đường chính của quân trường vừa bắn sang hai bên. Bắn dữ lắm! Đạn nối thành dây đỏ lừ. Một chặp sau nữa thì các ổng chạy trở ra, lúc này không bắn nữa. Tôi đoán chắc các ổng đã diệt hết quân lính ở trỏng và bây giờ muốn trở ra xa lộ. Lúc các ổng đang quay ra hướng xa lộ thì một bên sên (xích) xe buột ra. Các ổng vẫn chạy thêm một đoạn nữa rồi mới chịu dừng lại đúng ở chỗ bây giờ đó. Có lẽ các ổng định dừng lại để sửa chữa cái dải sên đó thì phải vì tôi thấy cái nắp trên nóc đã mở ra. Đúng lúc đó thì một tiếng nổ dữ dội vang lên. Tôi chỉ thấy nhoáng một cái và ù hết cả hai tai. Vài giây sau thì các ổng bốc lửa đùng đùng. Lửa cháy mỗi lúc một to. Khói đen mù mịt. Thỉnh thoảng lại bùng lên một cái. Tôi sợ lắm nhưng vẫn tiến lại gần. Biết đâu có ông nào bị thương mà nhảy ra thì mình còn có thể cứu giúp được. Lính bên nào thì cũng là người mình cả thôi, phải không chú? Tôi nép sát vào hiên nhà rồi chăm chú nhìn vào chiếc xe xem liệu có ai chui ra không. Nhưng không có ai cả, chỉ thấy khói lửa mịt mù. Đúng lúc đó tôi nghe tiếng người cười nói rổn rảng ở phía đằng cổng quân trường. Tôi quay ra nhìn thì thấy ông trung tá Lâm, sếp phó Trường Võ bị cùng mấy ông lính nữa đang chạy từ phía khẩu pháo to ở đằng kia lại. Họ vừa chạy vừa cười nói có vẻ phớn phở lắm. Tôi đoán chừng có lẽ chính họ vừa bắn hạ được các ông này nên chạy ra xem hay định bắt tù binh nữa không chừng. Sợ các ổng nhìn thấy mình tui vội vàng nép hẳn vào trong. Nhưng đúng vào lúc đó, đúng vào lúc ông Lâm và mấy ông lính nghênh ngang nhứt, hào hứng nhứt… thì giữa đám khói lửa mù mịt đó một ông bất ngờ đứng dạy. Người ổng cũng đang cháy bùng bùng. Tôi đoán chừng ổng sẽ nhảy xuống. Nhưng không phải! Tay ổng cắp khẩu súng lia một loạt dài rồi mới đổ gục xuống tại chỗ. Tôi sợ run hết cả chân tay. Đúng là từ hồi nhỏ đến giờ mới chứng kiến cảnh tượng ấy. Ổng như là “Thần Lửa” ấy. Đến lúc tôi định thần nhìn ra thì thấy ông trung tá Lâm với mấy người lính cộng hòa đã trúng đạn chết cả… Từ hôm ấy tôi vẫn hay nằm mơ thấy Thần Lửa hiện về đấy. Ổng không nói mà chỉ cười thôi. Chú đã bao giờ chứng kiến cảnh ấy chưa? Chú thấy tôi gọi ổng là Thần Lửa có đúng không? Các ổng sống khôn thác thiêng như vậy nên tôi đã lập cái ban thờ này để hương khói cho các ổng.



Lục tìm trong các cuốn Lịch sử Binh chủng TTG, Lịch sử của Lữ đoàn xe tăng 203, Trung đoàn xe tăng 574… phần ghi về sự kiện này hết sức ngắn gọn và vắn tắt. Đại khái là: “Khoảng 07.30 ngày 30.4.1975, khi đội hình binh đoàn thọc sâu đến Thủ Đức thì bị bọn địch ở Trường Võ bị bắn ra ngăn chặn gây thương vong cho một số chiến sĩ. Xe tăng 707 do Trần Quang Nhàn chỉ huy được lệnh cơ động vào trường đánh địch để bảo vệ bên sườn cho đội hình…”. Cuốn sử của Trung đoàn 574 mới xuất bản năm 2000 thì nói rõ hơn một chút song cũng chỉ cho biết là cả xe đã hy sinh anh dũng và xe đã được truy tặng Huân chương Quân công giải phóng hạng Ba. Nói chung là thông tin về kíp xe 707 trên các tài liệu chính thống chỉ vắn tắt như thế và vô cùng ít ỏi.
Gặp gỡ các đồng đội ở Lữ đoàn 203 tôi đã tìm ra danh tính cũng như quê quán của 5 chiến sĩ trên xe 707 ngày 30.4.1975 là:
     - Trưởng xe: Trần Quang Nhàn. Sinh năm 1954. Quê quán: Lực Điền, Yên Bình, Vĩnh Tường, Vĩnh Phú.
          - Pháo thủ: Nguyễn Văn Hữu- Sinh năm 1954. Quê quán: Hoà Xá, Đồng Phú, Chương Mỹ, Hà Tây.
     - Lái xe: Phạm Duy Hòa- Sinh năm 1950. Quê quán: Triều Khê, Đội  Bình, Ứng Hòa, Hà Tây.
     - Pháo hai: Ngô Văn Nghị: Sinh tháng 5.1953. Quê: Tông Thượng, Quang Trung, Kinh Môn, Hải Dương.
     - Y tá đi cùng: Trần Trọng Đông- Sinh năm 1954. Quê quán: Xóm: Đông, Đông Sơn, Chương Mỹ, Hà Tây.
Người mà ông già Viên nhìn thấy vùng dậy diệt địch khi lửa cháy bùng bùng trên thân mình có lẽ là lái xe Phạm Duy Hòa.
Không chỉ lập công trong trận đánh này mà xe 707 đã lập công xuất sắc trong nhiều trận đánh khi còn nằm trong đội hình Trung đoàn xe tăng 574, đặc biệt là trong chiến dịch Huế- Đà Nẵng. Kết thúc chiến dịch này, xe đã được đề nghị tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng hạng Nhất.

Được biết Lữ đoàn 203 xe tăng đang làm thủ tục đề nghị Nhà nước truy tặng danh hiệu Anh hùng LLVTND cho xe 707. Song dù các anh có được tuyên dương hay không thì các anh vẫn mãi mãi là những người anh hùng trong lòng chúng tôi- những người lính của Lữ đoàn xe tăng 203, là vị “Thần Lửa” uy dũng trong lòng bà con Tăng Nhơn Phú.

KÝ SỰ- MỘT VÒNG TÂY BẮC

Kỳ 17

Có lẽ tôi sẽ còn ngủ nữa nếu không có tiếng loa truyền thanh vang lên rõ mồn một lúc 6h. Rõ khổ! Đã tưởng đi đến những nơi sơn cùng thủy tận như thế này thì sẽ thoát khỏi sự ám ảnh của “loa phường” mà không được. Từ hôm lên đường qua bao nhiêu thành phố, thị xã, thị trấn chỗ nào cũng thấy đỏ rực một màu băng- rôn, khẩu hiệu (trừ TT Phong Thổ); đến đây lại được nghe loa truyền thanh nữa… thì thật là phục cho công tác tuyên huấn của Đảng và Nhà nước ta. Mà đây không phải loa phường nhé, từ trên loa nghe rõ rành đây là “loa huyện”. Có lẽ ưu tiên cho vùng sâu vùng xa nên NN cho Bắc Hà cái Đài phát thanh cơ. Có lẽ chẳng mấy lúc nữa nó sẽ vượt xa miền xuôi về cái khoản này. Thôi thì dậy vậy! Mà ngủ cũng đãy giấc rùi.




Tôi trở dậy ra ngoài sảnh khách sạn ngắm nghía 4 phía. Thị trấn miền núi dường như vẫn còn say giấc nồng. Những đám sương mù bảng lảng trên các ngọn núi bao quanh thị trấn. Thời tiết se se lạnh như ở Đà Lạt, Sa Pa. Cũng đúng thôi vì Bắc Hà cũng ở độ cao trên 1000 mét mà.






Đúng 7h sáng, bác Chiến đã có mặt để đưa đoàn đi ăn sáng. Trong lúc chờ đợi mọi người hai anh em ngồi chuyện gẫu. Thì ra bác vẫn tham gia công tác và đương là PCT Hội CCB huyện. To phết! Riêng lương này là hơn 5 củ. Thế này làm giề chẳng “Ơn đảng, ơn chính phủ…”. Có vẻ bác cũng đã nghiền ngẫm kỹ 2 tập Bão Thép của tôi nên có vẻ tâm đắc lắm, bẩu: “Đọc cái này rồi mới hiểu về tác chiến của xe tăng”. Híc!

Mọi người trả phòng xong xuôi, bác Chiến đưa đoàn đến một quán phở chẳng có biển hiệu gì cả. Tại 2 bàn trong đó đã thấy có 2 anh bạn nữa ngồi chờ cùng 1 đĩa thịt gà và 2… chai rượu. Thì ra đó là Toàn - một CCB Biên phòng giờ làm chủ tịch Hội CTĐ huyện và một nhân viên của Hội CCB. Mặc dù sẽ còn phải đi nhưng trước thịnh tình “Chào buổi sáng” của bà con bản địa đoàn mình vẫn phải mỗi người đôi chén. Vì không phải lái xe nên mình uống vô tư. Thủ phủ rượu ngô mà. Chú L1983 thì nhờ bà chủ gọi giúp 2 can rượu ngô. Chỉ vài phút sau hàng đã tới. Tiếp đó, bác Nguyên - nguyên Phó chủ tịch tỉnh về đây thăm cháu cũng ghé vô. Dù mới gặp nhưng anh em đã rất thân tình, cũng làm với nhau vài chén. Thế mới biết cái tình của người cùng cao nó chân thành, chất phác đến thế nào.




Vừa uống vừa chuyện trò, anh Thành hỏi: “Đường lên Si- ma- cai dạo này thế nào?” (Chả là năm ngoái con gái thày lên làm từ thiện bị đất lở không đi được) thì Toàn trả lời: “Ngon rùi! Bọn em xuống đó chỉ mất chưa đầy 1 tiếng”. Máu lãng tử lại nổi lên. Cả đoàn quyết định: “Đi Si ma cai!”.

Vì còn phải về HN trong ngày nên chúng tôi phải chia tay với anh Chiến và bà con BH ngay lúc đó.






Thứ Ba, 29 tháng 4, 2014

Đậy lại

 
Tà dương ráng đỏ nắng chiều
Ngậm ngùi chẳng rạng được nhiều sắc hoa
Non cao chi lắm kẻo mà
Chân chùn chẳng biết đâu là xuống lên Ngẩn ngơ ngày hết lại đêm
Vọng từ xưa cũ chày hiền Bom bo
Một thời gió thoảng vu vơ
Trái đào rơi giữa đợi chờ bâng khuâng
Trăng trong lách đám mây tầng
Thẹn soi rạo rực vườn xuân sương dày
Suối reo cười giữa rừng cây
Ngỡ ngàng khỏa tiếng dô hầy gọi tiên
Bồi hồi tức cảnh Điện Biên
"Nồi" thơ đậy lại ưu phiền nhờ "vung"....  

23/4/2014
Hồ Minh Quang