Bài 166
(Bài cuối cùng)
Di chúc văn
遺囑文
|
Di chúc văn
|
我年値八八
|
Ngã niên trị bát bát
|
我數逢九九
|
Ngã số phùng cửu cửu
|
嗟哉我德凉
|
Ta tai ngã đức lương
|
壽紀邁先考
|
Thọ kỷ mại tiên khảo
|
嗟哉我學淺
|
Ta tai ngã học thiển
|
魁然占龍首
|
Khôi nhiên chiếm long thủ
|
豈非先考齡
|
Khởi phi tiên khảo linh
|
留以錫爾父
|
Luu dĩ tích nhĩ phụ
|
豈非先考名
|
Khởi phi tiên khảo danh
|
不做以留後
|
Bất tố dĩ lưu hậu
|
平日無寸功
|
Bình nhật vô thốn công
|
俯仰已慚負
|
Phủ ngưỡng dĩ tạm phụ
|
足矣亦何求
|
Túc hĩ diệc hà cầu
|
死塟勿淹久
|
Tử táng vật yêm cửu
|
死幸得全歸
|
Tử hạnh đắc toàn quy
|
塟幸得親附
|
Táng hạnh đắc thân phụ
|
棺衾不可美
|
Quan khâm bất khả mĩ
|
只以敛足手
|
Chỉ dĩ liễm túc thủ
|
具饌不可豊
|
Cụ soạn bất khả phong
|
只以答奔走
|
Chỉ dĩ đáp bôn tẩu
|
不可寫祝文
|
Bất khả tả chúc văn
|
不可為對句
|
Bất khả vi đối cú
|
不可設銘旌
|
Bất khả đề thần chủ
|
不可達門生
|
Bất khả phó liên hữu
|
賓客不可招
|
Tân khách bất khả chiêu
|
賵吊不可受
|
Phúng điếu bất khả thụ
|
此皆累於生
|
Thử giai lụy ư sinh
|
死者亦奚有
|
Tử giả diệc hề hữu
|
惟以重吾過
|
Duy dĩ trọng ngô quá
|
囂然眾多口
|
Hiêu nhiên chúng đa khẩu
|
惟於塟之日
|
Duy ư táng chi nhật
|
旗扁導前柩
|
Kỳ biển đạo tiền cữu
|
芋工八九人
|
Vu công bát cửu nhân
|
吹送列左右
|
Xuy tống liệt tả hữu
|
草草死塟完
|
Thảo thảo tử táng hoàn
|
酹我以杯酒
|
Loại ngã dĩ bôi tửu
|
爰題墓石碑
|
Viên đề mộ thạch bi
|
皇阮故休叟
|
Hoàng Nguyễn cố hưu tẩu
|
Văn di chúc
Tuổi ta vừa tám mươi tám (1)
Số ta gặp vận dương cửu (2)
Than ôi đức ta kém
Tuổi thọ lại hơn cha ta
Than ôi học ta nông
Lại nghiễm nhiên chiếm đầu rồng (3)
Há chẳng phải tuổi của cha ta
Lưu lại để cho ta (4)
Há chẳng phải danh của cha ta
Không làm thì để cho đời sau làm
Dời ta chẳng có chút công gì
Cúi ngửa đã lấy làm hổ thẹn
Dủu rồi chẳng còn cần gì
Chết thì chôn đừng để lâu
Chết may được tòan vẹn mà chết
Chôn may được chôn gần cha mẹ
Quan tài khâm liệm không nên đẹp
Chỉ đủ gói kín chân tay thì thôi
Cỗ bàn không nên làm to
Chỉ để thết đãi người giúp việc
Không nên viết văn tế
Không nên làm câu đối
Không nên đặt minh tinh
Không nên đề thần chủ
Không nên đạt giấy cho học trò
Không nên cáo phó với bè bạn
Không nên mới khách khứa
Không nên nhận phúng viếng
Những cái đó đều làm lụy cho người sống
Người chết cũng chẳng được gì
Lại đem chuyện của ta
Nhiều người bàn lắm chuyện
Nhớ trong ngày chôn cất
Cờ biển rước đi trước
Tám chín người thợ kèn
Hai bên thổi đưa tiễn
Chôn cất qua loa xong
Rót tế ta chén rượu
Rồi đề vào bia mộ
Ông già hưu nhà Nguyễn.
1. Tám mươi tám: dịch chữ “bát bát” tức là 88 tuổi (?)
2. Vận dương cửu: Xem chú thích bài 159: Vãn đồng niên Vân Đình tiến sĩ Dương thượng thư.
3. Chiếm đầu rồng: ý nói tên đứng đầu bảng rồng, tức là đỗ đầu thi đình.
4. Để cho ta: Câu này do chữ “tích linh” (cho tuổi). Kinh Lễ: Văn Vương nhà Chu bảo Vũ Vương: “Số ta một trăm tuổi, số mày chím mươi tuổi, ta cho mày ba tuổi”. Sau đó Văn Vương thọ 97 tuổi, Vũ Vương thọ 93 tuổi.
Bản dịch hiện lưu hành phổ biến
Di chúc (1)
Kém hai tuổi xuân đầy chín chục (2)
Số thày sinh phải lúc dương cùng (3)
Đức thày đã mỏng mòng mong
Tuổi thày lại sống hơn ông cụ thày
Học chẳng có rằng hay chi cả
Cưỡi đầu người kể đã ba phen (4)
Tuổi thày tuổi của gia tiên
Cho nên thày được hưởng niên lâu dài
Ấy thuở trước ông mày chẳng đỗ (5)
Hóa bây giờ cho bố làm nên
Ơn vua chưa chút báo đền
Cúi trông hổ đất ngửa lên thẹn trời
Sống không để tiếng đời ta thán
Chết lại về quê quán hương thôn
Mới hay trăm sự vuông tròn
Sống lâu đã trải chết chôn chớ gì
Đồ khâm liệm chớ nề xấu tốt
Kín chân tay đầu gót thì thôi
Cỗ đừng to lắm con ơi
Hễ ai chạy lại khuyên mời người ăn
Tế đừng có viết văn mà đọc
Trướng đối đừng gấm vóc làm chi
Minh tinh (6) con cũng bỏ đi
Mời quan đề chủ (7) con thì chớ nên
Môn sinh (8) chớ tống tiền đạt giấy
Bạn của thầy cũng vậy mà thôi
Khách quen chớ viết giấy mời
Ai đưa lễ phúng con thời chớ thu
Chẳng qua nợ để cho người sống
Chết đi rồi còn ngóng vào đâu
Lại mang cái tiếng to đầu
Khi nay bày biện khi sau chê bàn
Cờ biển của vua ban thuở trước
Lúc đưa thày con rước đầu tiên
Lại thuê một lũ thợ kèn
Vừa đi vừa thổi mỗi bên dăm thằng
Việc tống táng lăng nhăng qua quýt
Cũng cho thày một ít rượu hoa
Đề vào mấy chữ trong bia
Rằng quan nhà Nguyễn cáo về đã lâu.
1. Di chúc: Bài này là lời di chúc của nhà thơ để lại dặn con cháu trước lúc chết làm bằng chữ Hán. Theo các sách chép thơ của Nguyễn Khuyến còn lưu trữ ở thư viện khoa học xã hội đều ghi là tác giả diễn âm. Nhưng theo ý kiến của một số cụ già địa phương nhà thơ thì bài này là do cụ Trần Tán Bình dịch trong buổi đưa ma Nguyễn Khuyến.Cụ Trần Tán Bình là môn sinh. Đây là bài phổ biến hơn bài chữ Hán. Cho đến nay vẫn được đa số coi là của Nguyễn Khuyến.
2. Nguyễn Khuyến: sinh năm Ất Mùi (1835) và mất năm Kỷ Dậu (1909), thọ 74 tuổi. Không phải tại sao câu này lại nói thọ 88 tuổi (?) Nếu đem so với bài thơ chữ Hán thì câu này nguyên văn là “Ngã niên trị bát bát” (tôi năm nay vừa sáu mươi tư tuổi) mới đúng. Và câu dịch phải là “Kém sáu tuổi xuân đầy bảy chục”. Cả hai đều xa với tuổi thực tế của tác giả. Chúng tôi ghi lại đây để chờ tra cứu thêm.
3. Dương cùng: “Dương cùng ư cửu” số dương cùng ở số chín> Câu này ý nói: Nhà thơ đã đén ngày tận số.
4. Cưỡi đầu người kể đã ba phen: ba lần đỗ đầu nên Nguyễn Khuyễn còn được gọi bằng tên “Tam nguyên Yên Đổ”.
5. Ông mày chẳng đổ: ý câu này nói: ông cụ thân sinh nhà thơ thuở trước cũng là chân học khoa cử nhưng không đỗ đạt cao.
6. Minh tinh: một mảnh lụa, mảnh vải hoặc mảnh giấy ghi tên hiệu, tên thụy, tuổi và chức tước, địa vị người chết trong khi đưa đám ma. Mảnh lụa hoặc giấy này đem dán vào một cái khung bằng tre hoặc nứa rất cao rước đi trước quan tài. Khi mai táng xong thì đốt cùng nhà táng. Co ghi buộc vào cây nêu gọi là cây triệu.
7. Đề chủ: viết tên và hiệu người chết vào Thần chủ (cái thẻ bằng gỗ để thơ người chết), vật tượng trung cho linh hồn người chết. Việc viết này thường được coi là tôn trọng, nên phải mời người có chức tước làm.
8. Môn sinh: Ngày xưa học trò cùng học một thày tổ chức thành hội, thường gọi là “Hội đồng môn”. Lúc thày còn sống thì săn sóc thăm hỏi, đến khi thày chết thì để tang và hàng năm phải làm giỗ.
Đỗ Đình Tuân dịch thơ:
Tuổi thày vừa tám tám
Số thày vận dương cùng
Than ôi đức thày mỏng
Thày lại thọ hơn ông
Than ôi học thày nông
Nghiễm nhiên chiếm đầu rồng
Chắc danh ông để lại
Cho thày làm nên chăng ?
Đời thày chẳng có công
Cúi ngửa đều hổ thẹn
Đủ rồi chẳng cần gì
Chết thì chôn cho chóng
Đã toàn vẹn thân sống
Chết chôn gần mẹ cha
Khâm niệm chớ lụa là
Cốt kín đầu kín gót
Cỗ bàn đừng làm to
Cốt đãi người giúp việc
Văn tế đừng nên viết
Trướng đối chớ nên làm
Không nên đặt minh tinh
Không nên đề thần chủ
Bạn bè đừng cáo phó
Môn sinh đừng báo tin
Mời khách khứa không nên
Không nên nhận phúng viếng
Để lụy cho người sống
Người chết được gì đâu
Lại mang tiếng to đầu
Để nhiều người lắm miệng
Hôm đưa thày mai táng
Cờ biển rước đầu tiên
Thuê tám chín thợ kèn
Đi hai bên thổi tiễn
Chôn cất qua loa xong
Cũng cho thày mấy chén
Đề mấy chữ trong bia
“Ông già hưu nhà Nguyễn”.
30/01/2015
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét