Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Ba, 1 tháng 9, 2015

Đọc Quốc âm thi tập (6)

 Bản chép chữ nôm các bài thơ


31. Mạn thuật 9

Am quạnh thiêu hương đọc ngũ kinh 1
Linh đài sạch một dường thanh
Nhà còn thi lễ âu chi ngặt
Đời bượp  2 văn chương uổng mỗ danh
Đầu tiếc đội mòn khăn Đỗ Phủ
Tay còn lựa hái cúc Uyên Minh 3
Chi là của tiêu ngày tháng
Thơ một hai thiên rượu một bình.
1.Ngũ kinh: Kinh dịch, Kinh thi, kinh thư, Kinh lễ, kinh xuân thu.
2.Bượp: âm Hán là phạp nghĩa là không có, thiếu. âm nôm là bượp.
3. Uyên Minh: tên tự của Đào Tiềm nhà thơ đời Tấn

32. Mạn thuật 10

Tưởng thân hư ảo nổi bằng bèo
Chí cũ công danh vưỡn rã keo 1
Viện có hoa tàn chăng quét đất
Nước còn nguyệt hiện xá thôi chèo
Lòng người tựa mặt ai ai khác 2
Sự thế bằng cờ bước bước nghèo
Không hết kể chi tay trí thuật
Để đòi khi ngã thắt khi eo. 3
1.Vưỡn rã keo: TVG phiên là “uốn lưỡi dao”  và chú là do chữ “đao bút” mà ra. ĐDA phiên là “Vẫn lỡ keo” Toàn tập tân biên phiên là “Vưỡn rã keo” và chú là “Không còn gắn bó nữa”.
2. Ai ai khác: trong Tả truyện, Tử Sằn có câu: “NHân tâm chi bất đồng như kỳ diện yên” (Lòng người khác nhau cũng như mặt người khác nhau vậy).
3. Hai câu kết nghĩa là: Trong đời kể không hết những tay dùng trí thuật để theo đuổi(đòi) khi người ta ngã và thắt buộc thêm khi người ta gặp khúc eo (lúc khó khăn)

33. Mạn thuật 11

Náu về quê cũ bấy nhiêu xuân
Lửng thửng chưa lìa lưới trần
Ở thế những hiềm qua mỗ thế
Có thân thì xá cốc 1 chưng thân
Vườn còn thông trúc đáng năm mẫu
Câu ước công danh đổi một cần
Miệt 2 bả hài 3 gai khăn cóc
Xênh xang 4 làm mỗ đứa 5 thôn dân.
1. xá cốc: hãy biết đến, nên biết đến
2. miệt: bít tất
3. Hài: giầy
4. Xênh xang: ĐDA phiên là xềnh xoàng có lẽ đúng hơn
5. Làm mỗ đứa: ĐDA phiên là “làm mấy đứa.

34. Mạn thuật 12

Trường văn làm ngả 1 mấy thu dư
Uổng tốn công nhàn biện lỗ ngư
Còn miệng tựa bình 2 đà chỉn giữ
Có lòng bằng trúc 3 mỗ nên hư
Én từ nẻo lạc nhà Vương Tạ 4
Quạt đã hầu thu lòng Tiệp dư 5
Chỉn xá lui 6 mà thủ phận
Lại tu thân khác mực 7 thi thư.
1.Trường văn nằm ngả: cảnh học trò học ngày xưa nằm bò ra để viết.
2.Miệng tựa bình: lấy ý từ câu “Thủ khẩu như bình” (giữ miệng như bình) ý nói cẩn thận trong nói năng
3.Lòng bằng trúc: lấy ý từ câu “Tiết trực tâm hư” lòng ngay thẳng vô tư
4. Vương Tạ: hai nhà đại quý tộc đời Tấn. Thơ Lưu Vũ Tích đời Đường có câu: “Tích thì Vương Tạ đường tiền yến / Phi nhập tầm thường bách tính gia” (Chim yền trước kia đậu trước nhà Vương Tạ / Nay nay bay vào chốn nhà dân dã tầm thường).
5. Tiệp dư: một cấp bậc của cung phi
6. Chỉn: chỉ, chỉ còn, hãy còn, vẫn…Chỉn xá lui: hãy nên lui.
7. Mực: Trần Văn Giáp phiên là “mức” ĐDA phiên là “mặc”…

35. Mạn thuật 13

Quê cũ nhà ta thiếu của nào
Rau trong nội cá trong ao
Cách song mai tỉnh hồn cô dịch 1
Kề nước cầm đưa tiếng củu cao 2
Khách đến vườn còn hoa lác 3
Thơ nên cửa thấy nguyệt vào
Cảnh thanh dường ấy chăng về nghỉ
Lẩn thẩn làm chi áng mận đào.
1.Cô dịch: tên núi ở tỉnh Sơn Tây Trung Quốc. Theo Trang Tử (Tiêu dao du) trên núi Cô dịch có thần nhân ở, da thịt như băng tuyết, yểu điệu như người con gái chưa chồng, không ăn ngũ cốc chỉ hớp gió uống sương. Ở đây chỉ cốt cách thanh khiết của hoa mai
2.Cửu cao: chín cái đầm. Thiên Hạc minh (Tiểu nhã, kinh thi) có câu “Hạc minh vu cửu cao, thanh văn vu dã” (chim hạc kêu ở ngoài xa nơi chín đầm mà tiếng còn nghe được ở đồng nội. Đây tả tiếng suối chảy nghe như tiếng đàn tiếng hạc.
3.Hoa lác: hoa lác đác

36. Mạn thuật 14

Án tuyết 1 mười thu uổng độc thư
Kẻo còn lọt lọt 2 chữ Tương Như 3
Nước non kể khắp quê hà hữu 4
Sự nghiệp nhàn khoe phú Tử Hư 5
Con mắt họa 6 xanh đầu dễ bạc
Lưng khôn uốn lộc nên từ
Ai ai đều đã bằng câu 7 hết
Nước chẳng còn có Sử Ngư.
1.án tuyết: chữ mượn thơ Viên Khải “Minh quy tuyết án đồng ôn tập”(Khi đêm về chỗ án sách có ánh tuyết cùng ôn tập). Tôn Khang đời Tấn nhà nghèo không có dầu thắp đèn đêm mùa đông phải nhờ ánh sáng của tuyết để đọc sách, sau thi đỗ làm đến quan ngữ sử đại phu. Án tuyết ở đây chỉ án sách.
2. Lọt lọt: rõ mồn một
3. Tương Như: tức Tư Mã Tương Như đời Hán, rất nổi tiếng về phú như Tử hư phú, Thượng lâm phú, Trường Môn phú. Ông không những văn hay còn đàn giỏi. Nàng Trác Văn Quân đang đêm bỏ nhà đi theo ông vì mê tiếng đàn của ông.
4. Quê hà hữu: xuất phát từ câu “vô hà hữu chi hương” chỉ nơi hư không tịch mịch, giữa cánh đồng bao la
5. Phú Tử hư: tên một bài phú của Tư mã Tương Như
6. Họa: ít khi
7. Bằng câu: lưng cong như lưỡi câu cá
8. Sử Ngư: đại quan nước Vệ thời Xuân Thu, nổi tiếng là người ngay thẳng

30/08/2015
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét