ĐÕ THẨM NGÔN
杜審言
Đỗ Thấm Ngôn (khoảng 645-708), tự Tất
Giản, quê gốc Thương Dương (nay thuộc Tương Phàn, Hồ Bắc), bố ông di cư đến huyện
Củng (nay là Củng Nghĩa, Hà Nam).
Tiến sĩ đời Hàm Hanh (670-674), làm chức trực học sĩ ở Tu văn quán. Ông là ông
nội của Đỗ Phủ, có ảnh hưởng nhất định đến Đỗ Phủ.
Thơ ông chủ yếu thổ lộ nỗi niềm xa
xứ, miêu tả cảnh vật núi sông, cấu tứ nghệ thuật tinh tế, cách luật nghiêm chỉnh.
夏日過鄭
七山齋
杜審言
共有樽中好
言尋谷口來
薜蘿山徑入
荷芰水亭開
日氣含殘雨
雲陰送晚雷
洛陽鐘鼓至
車馬繫遲回
Hạ
nhật quá Trịnh thất sơn trai
Đỗ Thẩm Ngôn
Cộng hữu tôn trung hảo
Ngôn tầm Cốc Khẩu lai
Bệ la sơn kính nhập
Hạ kỵ thủy đình khai
Nhật khí hàm tàn vũ
Vân âm tống vãn lôi
Lạc Dương chung cổ chí
Xa mã hệ trì hồi.
Dịch
nghĩa:
Ngày
hè qua sơn trai bảy Trịnh 1
Chúng
mình cùng thích rượu
Vì
thế hôm nay tôi tìm đến sơn trai 2 của anh
Bệ
lệ, nữ la 3 bò lan ra con đường nhỏ trên núi
Hoa
sen hoa sung nở quanh thủy đình
Hơi
nóng mặt trời thấm trong những hạt mưa rơi rớt lại
Bóng
mây vang vọng tiếng sấm buổi chiều tà
Nghe
tiếng chiêng trống từ phía Lạc Dương vọng tới
Đã
đến lúc phải về rồi nhưng vẫn dùng dằng ghìm ngựa chưa muốn trở về.
Dịch
thơ:
Chúng mình cùng thích chén cay
Nên tôi tìm đến anh đây tận nhà
Dây leo đường núi bò ra
Thủy đình sen ssng nở hoa mặt hồ
Khí trời còn ấm hạt mưa
Bóng mây đuổi sấm chiều tà rền vang
Lạc Dương chiêng trống vọng sang
Định về mà ngựa xe đang chần chừ.
Đỗ Đình Tuân
- Bảy Trịnh: chắc là một bạn thân của tác giả
- Sơn trai: nguyên văn là “Cốc Khẩu”, tên một huyện đời Hán, nay ở phía đông huyện Lễ Tuyền tỉnh Thiểm Tây, là nơi đời Hán có cao sĩ là Trịnh Phác ẩn cư. ở đây mượn tích này để chỉ nơi ở của bảy Trịnh.
- Bệ lệ, nữ la: các loại cây dây leo thuộc họ địa y
14/11/2015
Đỗ
Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét