Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Năm, 21 tháng 8, 2014

Dịch Bắc hành tạp lục: Bài 61



Bài 61

Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 1
耒陽杜少陵墓其一
Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ kỳ 1
天古文章天古師,
Thiên cổ văn chương thiên cổ si (sư),
平生佩服未常離。
Bình sinh bội phục vị thường ly.
耒陽松柏不知處,
Lỗi Dương 1 tùng bách bất tri xứ,
秋浦魚龍有所思。
Thu phố ngư long hữu sở ti (tư). 2
異代相憐空灑淚,
Dị đại tương liên không sái lệ,
一窮至此豈工詩。
Nhất cùng chí thử khởi công thi ?
掉頭舊症醫痊未,
Trạo đầu cựu chứng y thuyên vị ? 3
地下無令鬼輩嗤。
Địa hạ vô linh quỉ bối xi.

Dịch nghĩa: Mộ Đỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương
Văn chương lưu muôn đời, bậc thầy muôn đời
Bình sinh bái phục không lúc nào ngớt
Cây tùng cây bá ở Lỗi Dương, không biết ở nơi nào ?
Cá rồng trong bến thu, còn có chỗ để tưởng nhớ
Ở hai thời đại khác nhau, thương nhau, luống lơi lệ
Cùng khổ đến thế há phải bởi tại thơ hay ?
Chứng bệnh lắc đầu ngày trước, bây giờ đã khỏi chưa ?
Dưới địa phủ đừng để cho lũ quỉ cười.


Dịch thơ: Mộ Đỗ Thiếu Lăng ở Lỗi Dương 

Văn chương lưu mãi thày muôn đời

Bái phục thơ ông chẳng lúc rời

Tùng bách Lỗi Dương chưa biết chỗ

Bến thu rồng cá chửa từng nơi

Khác nhau thời đại mà thương khóc

Cùng khổ vì thơ luống ngậm ngùi

Chứng bệnh lắc đầu giờ đã khỏi ?

Đừng cho lũ quỷ dưới âm cười.

                           Đỗ Đình Tuân
                             (dịch thơ)


Chú thích:
*Đỗ Thiếu Lăng: chỉ Ðỗ Phủ 杜甫 (712-770), một thi bá đời Thịnh Ðường. Vì có nhà ở đất Thiếu Lăng 少陵, phía nam Trường An 長安, tỉnh Thiểm Tây 陝西 nên có biệt hiệu là Thiếu Lăng.
1. Ở tỉnh Hồ Nam. Năm Ðại Lịch thứ 6 (771) đời vua Ðường Ðại Tôn 唐文宗, Ðỗ Phủ ở Hồ Nam lưu lạc đến Hồ Bắc. Một hôm đến huyện Lỗi Dương lên núi yết Nhạc miếu, bị nước lụt dâng ngót 10 hôm không trở về được. Quan huyện Lỗi Dương nghe tin bèn thân hành đưa thuyền đến đón. Về đến huyện, Ðỗ uống rượu say rồi mất. Gia đình nghèo không đưa hài cốt về quê được phải táng ở Lỗi Dương. Bốn mươi năm sau (813) cháu là Ðỗ Tự Nghiệp mới dời di hài về chôn gần mả tổ tại núi Thú Dương, tỉnh Hà Nam. Nguyễn Du sang sứ Trung Quốc năm 1813, tức là một nghìn năm sau khi mả của Ðỗ Phủ đã dời về núi Thú Dương. Cho nên không còn ai biết nền cũ nằm ở chỗ nào.
2. "Thu phố ngư long hữu sở ti": câu này Nguyễn Du lấy ý tứ hai câu thơ của Đổ Phủ trong bài Thu hứng kỳ 4 秋興:
魚龍寂寞秋江冷 故國平居有所思
Ngư long tịch mịch thu giang lãnh,
Cố quốc bình cư hữu sở tư.
(Cá rồng vắng vẻ sông thu lạnh,
Nước cũ ngày nào cứ tưởng mơ)
Ý nói Đỗ Phủ (và cả Nguyễn Du) xa quê hương, đến mùa thu lại nhớ nhà. Nguyễn Du đã đúc hai câu làm một, vừa để nói lên nỗi lòng của Ðỗ Phủ ngày xưa, vừa tỏ tấm tình của mình khi đến viếng mộ: Mộ tuy không còn thấy, nhưng vẫn còn có chỗ để gởi lòng kính thương kính mộ là những áng thơ tuyệt tác như câu "Ngư long ...".
3. Tiểu sử kể rằng về già Đỗ Phủ mắc nhiều bệnh lại điếc, nói chuyện với ai phải viết ra giấy, cánh tay phải tê liệt, lúc viết thư thì con viết thay. Chứng lắc đầu có thể là triệu chứng của một bệnh thần kinh nào đó của Ðỗ Phủ được nhà thơ đề cập đến trong thơ văn (?).
15/7/2014
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét