BẠCH CƯ DỊ
白居易
Bạch Cư Dị (772-846), tự Lạc Thiên, hiệu Hương Sơn cư sĩ, quê gốc Hạ Khuê (nay là vùng phụ cận huyện Vị Nam, Thiểm Tây), sinh ở Tân Trịnh, Hà Nam. Tiến sĩ năm Trinh Nguyên 16 (800). Từng giữ các chức hiệu thư lang, tán thiện đại phu, sau làm thái tử thiếu phó. Tận mắt chứng kiến triều chính đổ nát, lý tưởng kiêm tế thiên hạ đổ vỡ, ông lui về cư trú tại Lạc Dương, độc thiện kỳ thân, vui thú rượu thơ.
Bạch Cư Dị trải qua 8 triều vua, sống 75 tuổi, làm gần 3000 bài thơ. Đây là điều ít thấy trong các nhà thơ Đường. Ông là người khởi xướng phong trào nhạc phủ mới, bản thân có quan điểm văn học hoàn chỉnh, và thông qua sáng tác để nghiệm chứng lý luận của mình. Ông là bậc cao thủ về thơ tự sự. “Trường hận ca”, “Tỳ bà hành” thể hiện tài năng về mặt này của ông. Một điều đáng nêu là, đối với người phụ nữ ở địa vị hèn yếu khuất nhục, ông tỏ ra thông cảm và bằng quan điểm nhân đạo, ông đã vì họ cất lên tiếng kêu đau thương. Ông có Bạch thi Trường Khánh tập. Toàn Đường thicó 39 quyển thơ ông.
(Theo MEN RƯỢU ĐƯỜNG THI, nvb VH, HN-2012)
白居易
Bạch Cư Dị (772-846), tự Lạc Thiên, hiệu Hương Sơn cư sĩ, quê gốc Hạ Khuê (nay là vùng phụ cận huyện Vị Nam, Thiểm Tây), sinh ở Tân Trịnh, Hà Nam. Tiến sĩ năm Trinh Nguyên 16 (800). Từng giữ các chức hiệu thư lang, tán thiện đại phu, sau làm thái tử thiếu phó. Tận mắt chứng kiến triều chính đổ nát, lý tưởng kiêm tế thiên hạ đổ vỡ, ông lui về cư trú tại Lạc Dương, độc thiện kỳ thân, vui thú rượu thơ.
Bạch Cư Dị trải qua 8 triều vua, sống 75 tuổi, làm gần 3000 bài thơ. Đây là điều ít thấy trong các nhà thơ Đường. Ông là người khởi xướng phong trào nhạc phủ mới, bản thân có quan điểm văn học hoàn chỉnh, và thông qua sáng tác để nghiệm chứng lý luận của mình. Ông là bậc cao thủ về thơ tự sự. “Trường hận ca”, “Tỳ bà hành” thể hiện tài năng về mặt này của ông. Một điều đáng nêu là, đối với người phụ nữ ở địa vị hèn yếu khuất nhục, ông tỏ ra thông cảm và bằng quan điểm nhân đạo, ông đã vì họ cất lên tiếng kêu đau thương. Ông có Bạch thi Trường Khánh tập. Toàn Đường thicó 39 quyển thơ ông.
(Theo MEN RƯỢU ĐƯỜNG THI, nvb VH, HN-2012)
自勸
憶昔饑寒應举年
脫衣典酒曲江邊
十千一斗猶奢飲
何況官供不值錢
Tự
khuyến
Ức tích cơ hàn ứng cử niên
Thoát y điển tửu Khúc Giang biên
Thập thiên nhất đấu do xa ẩm
Hà huống quan cung bất trị tiền.
Dịch
nghĩa:
Tự
khích lệ mình
Nhớ
năm xưa đang lúc đói rét ta đi thi
Cởi
áo đợ rượu bên bờ Khúc Giang
Mười
ngàn đồng một đấu hoang phí ta vẫn uống
Huống
giờ đây đã có chút tiền lương còm
Dịch
thơ:
Nhớ thời àn sĩ năm xưa
Cởi áo đợ rượu bên bờ Khúc Giang
Phí hoang ta vẫn uống tràn
Huống giờ đã có lương quan mấy đồng.
Đỗ Đình Tuân
24/10/2015
Đỗ
Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét