HÀN
DŨ
韩愈
Hàn
Dũ (768-824), tự Thoái Chi, người Hà Dương (phía đông Mạnh Châu, Hà Nam ngày nay).
Còn được người đời gọi là Hàn Xương Lê. Tiến sĩ năm Đức Tông Trinh Nguyên
(792).Từng giữ các chức quốc tử bác sĩ, Hình bộ thị lang, giám sát ngự sử. Vì
dâng sớ can gián vua bị biếm làm Thứ sử Triều Châu. Không lâu quay về
triều, lần lượt làm quốc tử tế tửu, Binh bộ thị lang, kinh triệu doãn. Tính
cách chính trực, nói thẳng, là người khởi xướng phong trào cổ văn đời Đường. Lý
luận và sáng tác thơ ca của ông đều có những thành tựu quan trọng, có ảnh hưởng
lớn tới hậu thế. Tản văn của ông được xếp đứng đầu “Bát đại gia Đường, Tống”.
Thơ ông khí phách hùng vĩ, tưởng tượng
ới lạ, ý cảnh tráng khoat, không rơi vào lối mòn quen thuộc, thích dùng chữ mới,
vần hiểm, tạo ra một phong cách mói, nhưng cũng có lúc rơi vào bí hiểm. Ông có ảnh
hưởng tương đối lớn tới thơ Tống. Có Xương
Lê tiên sinh tập. Trong Toàn Đường
thi có 10 quyển của ông.
(Theo
MEN RƯỢU ĐƯỜNG THI nxbVH, Hà Nội-1012)
八月十五夜
贈張功曹
韩愈
纎雲四卷天無河
清風吹空月舒波
一杯相屬君當歌
君歌聲酸辭正苦
不能聽終淚如雨
洞庭連天九疑高
跤龍出沒猩鼯號
十生九死到官所
幽居默默如藏逃
下床畏蛇食畏藥
海氣溼蟄熏腥臊
昨者州前錘大鼓
嗣皇繼聖登夔皋
赦書一日行千里
罪從大辟皆除死
遷者追回流者還
滌瑕蕩垢清朝斑
州家申名使家抑
坎軻只得移荊蠻
判司婢官不堪說
未免錘楚塵埃間
同時流輩多上道
天路幽險難追攀
君歌且休聽我歌
我歌今與君殊科
一年明月今宵多
人生由命非由他
有酒不飲奈明何
Bát nguyệt thập ngũ dạ
tặng Trương Công Tào
Hàn Dũ
Tiêm vân tứ quyển thiên vô hà
Thanh phong thư không nguyệt thư ba
Sa bình thủy tức thanh ảnh tuyệt
Nhất bôi tương thuộc quân đương ca
Quân ca thanh toan từ chính khổ
Bất năng thính chung lệ như vũ
Động Đình liên thiên Cửu Nghi cao
Giao long xuất một tinh ngô hiệu
Thập tinh cửu tử đáo quan sở
U cư mặc mặc như tàng đào
Hạ sàng úy xà thực úy dược
Hải khí thấp chập tiền chúy đại cổ
Tự hoàng kế thánh đăng Quý Cao
Xá thư nhất nhật hành thiên lý
Tội tùng đại bích giai trừ tử
Thiên giả truy hồi lưu giả hoàn
Địch hà đãng cấu thanh triều ban
Châu gia thân danh sứ gia ức
Khám kha chỉ đắc di kinh man
Phán ty tỳ quan bất kham thuyết
Vị miễn chúy sở trần ai gian
Đồng thời lưu bối đa thương đạo
Thiên lộ u hiểm nan truy phan
Quân ca thả hưu thính ngã ca
Ngã ca kim dữ quân thù khoa
Nhất nguyên minh nguyệt kim tiêu đa
Nhân sinh do mệnh phi do tha
Hữu tửu bất ẩm nại minh hà ?
Dịch nghĩa:
Đêm rằm tháng tám tặng công tào họ Trương. 1
Mây tơ cuồn cuộn bốn bên trời không có sao
Gió trong thổi trên không ánh trăng tràn trề
Bờ cát bằng phẳng, nước sông êm ru, xung quanh yên lặng
Mời nhau một chén để nghe bác hát
Bác hát tiếng chua xót, lởi đắng cay
Tôi không thể nghe hết nước mắt như mưa
Hồ Động Đình như liền với trời, Cửu nghi 2 cao vời
Giao long ẩn hiện, tinh tinh và loài chuột
bay khổng lồ gầm gào
Một sống mười chết mới đến được nhiệm sở
nơi bị biếm 3
Sống âm thầm lặng lẽ như lẩn trốn
Xuống giường sợ rắn, ăn sợ thuốc độc
Rắn rết ẩn nấp chỗ ẩm ướt bốc mùi tanh tao
Hôm qua trước nha môn châu 4 nổi trống lớn 5
Vua nối ngôi 6 trọng dụng Quỳ Cao 7
Quan lại đưa lệnh ân xá 8 một ngày đi nghìn dặm
Tội từ tử hình đều miễn chết
Những người bị giáng chức đượcphục hồi,
những người bị lưu phóng được trở về
Thanh trừ tệ nạ chỉnh đốn triều cương
Nhà Châu 9 áo tên ta lên trên, nhà sứ 10 ghìm lại
Thất vọng ta đành chịu điều về vùng kinh man 11 này
Là phán ty 12chức quan thấp, ta có nói cũng vô ích
Không những thế mà còn không tránh được
bị nọc ra đánh đòn roi
Những người cùng bị lưu phóng với ta phần lớn
đã lên đường trở về kinh
Con đường tiến thân nhập triều u hiểm ta khó lêo lên
Bác tạm ngừng ca nghe tôi ca
Tôi ca lúc này khác với bác ca
Cả năm đêm nay trăng sáng nhất
Đời người do số mệnh không phải do gì khác
Có rượu ngon không uốnglàm sao xứng với trăng sáng ?
Dịch thơ:
Bầu trời không mây không sao
Tầng không gió mát trăng cao tràn trề
Bãi bằng nước lặng im re
Mời nhau một chén lè nhè bác ca
Bác ca cay đắng xót xa
Thoạt nghe tôi đã mắt nhòa lệ rơi
Núi cao mặt nước liền trời
Giao long ẩn hiện chuột giơi từng bầy
Mười sống chín chết đến đây
Âm thầm hoang vắng biết ngày nào ra
Ăn sợ độc ngủ sợ ma
Rắn rết ẩm ướt đến là tanh tao
Hôm nay trống lớn gọi vào
Có ông vua mới Quỳ Cao chọn dùng
Lệnh ân xá chạy nghìn trùng
Nhièu người thoát chết lắm ông phục hồi
Nhà châu đã báo tên tôi
Sang bên nhà sứ các ngài dìm đi
Buồn đau thất vọng trăm bề
Đành lòng phải chịu điều về kinh man
Nhận làm một chức phán quan
Chức quan thấp hỏi góp bàn được sao
Đã không ích lợi chi nào
Mà sao tránh khỏi trói vào đòn roi
Nhiều người khác lại kinh rồi
Sao con đường ấy cao vời với ta
Bác tạm ngừng để tôi ca
Tôi ca chắc hẳn khác xa bác rồi
Đời ta định tại số trời
Rượu ngon không uống thiệt thòi lắm ru ?
Đỗ Đình Tuân
- Công tào họ Trương: tức Trương Thự, nhà thơ và Trương Thự cùng là giám sát ngự sử, cùng vì thẳng thắn can gián mà bị biếm xuống phương nam, lại cùng hy vọng nhân Hiến Tông đại xá mà được triệu hồi, nhưng rồi hy vọng tan vỡ, buồn chán cùng nâng chén ca ngâm động viên lẫn nhau vào đêm trung thu trăng sáng.
- Cửu Nghi: tên ngọn núi tại Ninh Viễn, tỉnh Hồ Nam
- nhiệm sở nơi bị biếm: Lâm vũ, nay thuộc Hồ Nam
- Nha môn châu: chỉ Châu Xâm này thuộc vùng đông nam tỉnh Hồ Nam
- Thời Đường khi ban bố lệnh ân xá phải đánh trống để triệu tập quan lại và dân chúng
- Vua nối ngôi: chỉ Đường Hiến Tông
- Quỳ, Cao: hai hiền thần đời Nghiêu Thuấn. Ở đây chỉ những người hiền tài
- Lệnh ân xá: do Hiến Tông ban ngày 5 tháng 8 năm Vĩnh Trinh thứ 1 (805)
- Nhà châu: chỉ thứ sử châu quận
- Nhà sứ: chỉ Dương Bằng, quan sát sứ do trung ương đặc phái, người gây trở ngại cho Hàn Dũ và Trương Thự
- Kinh man này: chỉ việc bị điều về Giang Lăng
- Phán ty: gọi chung các tào tham quân
Đỗ Đình Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét