Bài 105
Canh Dần thanh minh
庚寅清明
|
Canh Dần thanh minh
|
積雨連朝今始晴
|
Tích vũ liên triêu kim thủy
thanh
|
不知此日是清明
|
Bất tri thử nhật thị thanh minh
|
陰雲淡淡未全散
|
Âm vân đạm đạm vị toàn tán
|
喬木欣欣初向榮
|
Cao mộc hân hân sơ hướng vinh
|
人過伊川悲野祭
|
Nhân
quá y xuyên bi dã tế
|
客從東洛感山傾
|
Khách túng đông cảm sơn khuynh
|
北窗許久凄凉甚
|
Bắc song hứa cửu thê lương thậm
|
潤筆含杯意未平
|
Nhuận bút hàm bôi ý vị bình
|
Tiết thanh
minh năm Canh Dần (1890) (1)
Mấy hôm mưa
liền nay mới tạnh
Nào biết đã
là ngày thanh minh rồi
Mây đen vẫn
còn vẩn vơ chưa tan hết
Cây cao đã
mơn mởn bắt đầu xanh tốt
Người đi
qua Y Xuyên thấy đám tế ngoài đồng mà buồn rầu (2)
Khách từ
Đông Lạc nghe tiếng chuông kêu mà cảm việc núi đồng đổ (3)
Bấy lâu nay
ở trước cửa phía bắc thấy buồn bã tệ (4)
Nhấm bút đề
thơ ngậm chén uống rượu nhưng lòng vẫn chưa nguôi.
1.
Thanh minh:
tên
một tiết trong 24 tiết của một năm âm lịch, thường vào khoang tháng 3 (mồng 5
hoặc 6 tháng 4 dương lịch), người ta hay viếng mộ về độ ấy.
2.
Y Xuyên: Tả truyện
kể: Tân Hữu qua đất Y Xuyên thấy có người dóc tóc đứng tế ở ngoài đồng mà lấy
làm buồn. Tác giả mượn điển này để nói việc viếng mộ trong ngày Thanh minh.
3.
Núi đồng đổ: đời Vũ Đế
nhà Hán, chuông ở điện Vị Ương, tự nhiên kêu ba ngày đêm. Đông Phương Sóc cho rắng
tất có cái núi đồng nào đổ. Quả nhiên ba hôm sau có địa phương báo núi lở thật.
Lời sớ của Kinh dịch có câu: “Đồng Sơn
Tây băng, Lạc chung đông ứng”(núi đồng đổ ở phía tây, chuông Lạc kêu ở
phương đông). Ý nói những vật tương khí tương cảm.
4.
cửa sổ phía
bắc:
tiếng hay dùng để chỉ chỗ ở của ẩn sĩ.
Đỗ Đình
Tuân dịch thơ:
Sau
mấy ngày mưa ló măt trời
Nào
hay đã đến thanh minh rồi
Mây
đen lảng vảng chưa tan hết
Cây
cối xanh xanh đã nảy chồi
Qua
đất Y Xuyên người đứng tế
Về
miền Đông Lạc tiếng chuông hồi
Bấy
lâu cửa bắc ngồi buồn bã
Uống
rượu làm thơ dạ chẳng nguôi.
8/12/2014
Đỗ Đình
Tuân
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét