Thành viên xón TriAn kính viếng thân mẫu ông Nguyenx Văn Nhã

- CẢM ƠN ĐỜI MỖI SÁNG MAI THỨC DẬY. TA CÓ THÊM NGÀY NỮA ĐỂ YÊU THƯƠNG -

Thứ Năm, 26 tháng 4, 2012

Dịch thơ cổ: Nguyễn Phi Khanh 14

Bài 41

九月村居獨酌

醪酌罷自談詩
欲把幽懷更向谁
荒徑人行秋色少
故園雨勒菊花遲
龍山後會知何日
彭澤歸心最此時
萬事悠悠拚一
了知身到鳳凰池
              阮飛卿

Phiên âm

Cửu nguyệt thôn cư độc chước

Thôn giao chước bãi tự đàm thi
Dục bả u hoài cánh hà thùy
Hoang kính nhân hành thu sắc thiểu
Cố viên vũ lặc cúc hoa trì
Long Sơn hậu hội tri hà nhật
Bành Trạch quy tâm bối thử thì
Vạn sự du du phiên nhất túy
Liễu tri thân đáo Phượng Hoàng trì.
                          Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Tháng chín ở xóm quê nhà uống rượu một mình

Rượu quê rót cạn một mình ngâm thơ
Muốn giãi nỗi lòng sâu kín  biết nói cùng ai ?
Trên lối đi hoang rậm sắc thu đã phai
Trong vườn cũ ít mưa hoa cúc nở muộn
Sau cuộc họp Long Sơn (1) biết ngày nào nữa ?
Lòng về bành Trạch  (2) chính lúc này đây !
Muôn việc triền miên dành một cuộc say
Mới biết thân này đã đến ao Phượng Hoàng (3)!

Ghi chú
1. Long Sơn: Tên một quả núi ở Trung Quốc. Theo Tấn thư, trong cuộc hội yến ở Long Sơn vào ngày 9/9 (tức vào tiết Trùng dương) do Hoàn Ôn chủ trì, một người giữ chức tham quân của Hoàn Ôn là Mạnh Gia say rượu quá, đến nỗi gió thổi bay mất mũ mà không biết. Cử tọa đều cười vui bắt Gia phải làm một bài phú về việc này.
2. Bành Trạch: Nơi Đào Tiềm, một nhân vật sống ở đời Tấn ở ẩn, ông có bài “Quy khứ lai từ” nổi tiếng.
3. Ao Phượng Hoàng (Phượng Hoàng trì): Theo Tấn thư , ao Phượng Hoàng là tiếng người sau chỉ tòa Trung thư, một cơ quan trọng yếu.

Dịch thơ
1.
Rượu quê rót vợi tự ngâm thơ
Biết tỏ cùng ai nỗi tóc tơ
Lối cũ người đi thu sắc nhạt
Vườn xua mưa ít cúc hoa thưa
Long Sơn hội mở còn thăm thẳm
Bành Trạch lòng về những vẩn vơ
Man mác việc đời say trút sạch
Mình về ao Phượng vẫn trong mơ.

2.
Vừa uống vừa ngâm rót cạn chai
Nỗi niềm sâu kín ngỏ cùng ai
Vườn xưa mưa ít cúc bông muộn
Lối rậm người đi thu sắc phai
Sau Hội Long Sơn chừng có dịp ?
Lòng về Bành Trạch chính đây rồi
Triền miên muôn việc dành say một
Ao Phượng thân này đã đến nơi.
                     Đỗ Đình Tuân dịch


Bài 42

秋日曉起有感

残夢疏疏醒曉鍾
日含秋影射窻櫳
客懷擁枕欹眠後
心事焚香兀坐中
庭外掃愁看落葉
天邊灑淚数征鴻
嗚呼世道何如我
三撫遺編賦大東
               阮飛卿

Phiên âm

Thu nhật hiểu khởi hữu cảm

Tàn mộng sơ sơ tỉnh hiểu chung
Nhật hàm thu ảnh xạ song lung
Khách hoài ủng chẩm y miên hậu
Tâm sự phần hương ngột tọa trung
Đình ngoại tảo sầu khan lạc diệp
Thiên biên sái lệ sổ chinh hồng
Ô hô thế đạo hà như ngã
Tam phủ di biên phú Đại đông
                     Nguyễn Phi Khanh

Dịch nghĩa

Ngày thu sáng dậy cảm xúc nên thơ

Chuông sớm xa xa tỉnh giấc mộng tàn
Mặt trời ngậm bóng thu dọi vào song cửa
Nỗi lòng đất khách sau lúc nghiêng gối nằm ngủ
Một bầu tâm sự trong khi đốt hương ngồi ngây
Ngoài sân xem lá rụng quét sầu
Đếm chim nhạn bên trời rơi từng giọt lệ
Than ôi cuộc đời như vậy ta biết tính sao đây
Ba lần vỗ sách cũ mà ngâm thơ đại đông.

Ghi chú
1.Đại đông: Tên một bài thơ trong phần Tiểu nhã của Thi kinh, có nội dung chỉ trích thời loạn.

Dịch thơ:
1.
Mộng tỉnh bâng khuâng rộn tiếng chuông
Nắng thi lấp lánh chiếu qua song
Bồi hồi ngủ dậy đầu ôm gói
Man mác ngồi im lặng đốt hương
Sân trước quét sầu nhìn lá rụng
Trời xa ngăn lệ đếm chim hồng
Than ôi thế sự nên sao đặng
Thơ cũ ba lần  đọc Đại đông.
                 Bùi Văn Nguyên dịch

2.
Mộng tàn chuông sớm xa xa
Mặt trời ngậm bóng thu tà trước song
Miên man đất khách sự lòng
Đốt hương lặng lẽ trong phòng ngồi ngây
Ngoài sân sầu lá rụng đầy
Đếm chim rơi lệ nhạn bay bên trời
Cuộc đời sao vậy than ôi
Ba lần vỗ sách ngâm bài Đại đông
                       Đỗ Đình Tuân dịch

11/4/2012
Đỗ Đình Tuân

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét